Bạn đang xem bài viết Cảm Nhận Đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo ❤️️12 Bài Cảm Nghĩ Hay được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Bpco.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Cảm Nhận Đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo ❤️️ 12 Bài Cảm Nghĩ Hay ✅Tuyển Tập Các Bài Văn Mẫu Đặc Sắc Cảm Nhận Về Đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo.
Chia sẻ Dàn ý cảm nhận đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo chi tiết sau đây sẽ giúp các em học sinh nắm bắt được bố cục và hệ thống những ý chính để dễ dàng triển khai bài văn của mình.
I. Mở bài:
Giới thiệu những nét khái quát về tác giả Nguyễn Trãi (đặc điểm về cuộc đời, con người, quan niệm sáng tác, các sáng tác tiêu biểu,…)
Giới thiệu những nét khái quát về tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” (thể loại, cảm hứng chủ đạo, hoàn cảnh ra đời, đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,…)
Giới thiệu khái quát về đoạn 1 của tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”
II. Thân bài:
– Nêu lên tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc, độc đáo
“Nhân nghĩa” là một quan niệm tư tưởng cốt lõi trong quan niệm của Nho giáo, nhằm thể hiện rõ mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa con người với con người trên cơ sở của tình thương và đạo lí.
Với Nguyễn Trãi, nền tảng cốt yếu của “nhân nghĩa” chính là yên dân, là đem đến cho nhân dân cuộc sống bình yên, ấm êm và hạnh phúc.
Để dân được yên thì việc quan trọng cần phải làm đó chính là “trừ bạo”, là đánh đuổi những kẻ tàn bạo đang xâm lược nước ta và cả những kẻ tham tàn trong nước đã đẩy nhân dân vào cuộc sống cơ cực, khốn khó, lầm than.
– Nêu lên chân lí độc lập khách quan của dân tộc Đại Việt ta từ ngàn đời nay:
Có nền văn hiến từ lâu đời, có lãnh thổ riêng đã được phân định rõ ràng và mỗi vùng miền đều có những nét phong tục, tập quán riêng, mang bản sắc riêng của dân tộc Đại Việt.
Đặt các triều đại của nước Đại Việt sánh ngang với các triều đại phong kiến phương Bắc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà qua đó còn thể hiện niềm tự hào về những truyền thống, về lịch sử ngàn năm của dân tộc.
Điểm lại những chiến thắng lịch sử huy hoàng, vang dội của quân và dân ta trong lịch sử.
III. Kết bài: Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật trong đoạn 1 của tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” và nêu cảm nhận của bản thân.
Bài văn mẫu cảm nhận đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo ngắn gọn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho bạn đọc và các em học sinh.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Năm 1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại rừng núi Lam Sơn – Thanh Hóa. Sau 10 năm chiến đấu gian lao và anh dũng, quân ta đã quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập, tự do cho đất nước và dân tộc. Đầu xuân năm 1428, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi viết bài “Bình Ngô đại cáo”, tổng kết những chiến công oanh liệt trong 10 năm kháng chiến và tuyên bố Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới “Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.
Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, đồng thời ca ngợi nền vàn hiến rực rỡ lâu đời của Đại Việt. Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, tất cả đều hướng về con người, về nhân dân đang bị áp bức lầm than. Thuơng dân, đánh kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt lũ tham tàn, bạo ngược (trừ bạo), cứu nhân dân thoát khỏi chết chóc đau thương, đem lại cuộc sống yên vui hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa.
Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc để cứu nước, cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Việc nhân nghĩa nên rất chính nghĩa. Nhân nghĩa là sức mạnh vô địch để chiến thắng quân “cuồng Minh”.
“Đem đại nghĩa để tháng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Nhân dân ta giàu nhân nghĩa nên lấy nhân nghĩa để xây dựng và phát triển nền văn hiến lâu đời, rực rỡ của Việt Nam. Nếu ở “Nam quốc sơn hà”, Lí Thường Kiệt chỉ mới nói đến sông núi nước Nam là nơi “Nam đế cư”, lãnh thổ thiêng liêng ấy đã được “định phận rõ ràng ở sách Trời”, thì ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đứng trên đỉnh cao thời đại “Bình Ngô” đã có một cái nhìn mới sâu sắc và toàn diện về đất nước, nhân dân Đại Việt:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
……
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Nước Đại Việt đâu phải “man đi mọi rợ” mà rất đáng tự hào.Có nền văn hiến đã lâu, có lãnh thổ, núi sông, bờ cõi, có thuần phong mĩ tục, có nền độc lập trải qua nhiều triều đại “xưng để một phương”,có nhân tài hào kiệt. Năm yếu tố ấy hợp thành đã tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh Đại Việt để đánh bại mọi âm mưu xâm lược bành trướng của Thiên Triều, lập nên bao chiến công chói lọi.
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.
Giọng văn đĩnh đạc hào hùng. Lí lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt sóng đôi, cân xứng của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của Đại Việt, biểu lộ một ý chí, tự cường dân tộc cao độ.
Phần mở đầu đã góp phần thể hiện tuyệt đẹp giá trị tư tưởng và nghệ thuật của “Bình Ngô đại cáo”, bản tuyên ngôn độc lập, áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc.
Tham khảo➡️ Thuyết Minh Về Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo ❤️️ 15 Bài Hay
Bài văn cảm nhận của em về đoạn 1 bài Đại Cáo Bình Ngô chi tiết sẽ giúp bạn đọc có thêm những góc nhìn và cảm nhận sâu sắc hơn về giá trị của tác phẩm.
Nhắc đến những nhà văn chính luận lỗi lạc của văn học trung đại chúng ta không thể nào không nhắc đến Nguyễn Trãi. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất với các tác phẩm: “Quân trung từ mệnh tập”, các chiếu biểu viết dưới thời nhà Lê và tiêu biểu nhất là tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Các áng văn chính luận này đã thể hiện được lòng yêu nước, thương dân của tác giả.
Ngay câu đầu bài cáo đã bộc lộ tư tưởng nhân nghĩa ấy:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
“Nhân nghĩa” là tấm lòng thương yêu người, là những hành động vì lợi ích của nhân dân, cộng đồng. Bên cạnh đó, “nhân nghĩa” cũng là sự tôn trọng lẽ phải, bênh vực lẽ phải. Chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” là “yên dân”, “trừ bạo”, cuộc sống và sự no ấm của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Giữa con người phải có tình yêu thương lẫn nhau, cùng chiến đấu để bảo vệ đất nước, thoát khỏi đời sống khổ cực, lầm than.
Để được như vậy thì phải diệt trừ những kẻ bạo tàn, những thế lực xâm lược hung hãn, đó chính là giặc Minh đang xâm chiếm đất nước ta lúc bấy giờ. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc.
Để khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã đưa ra những dẫn chứng xác đáng và vô cùng thuyết phục:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
……
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Nền văn hiến đã có từ lâu đời và được hình thành từ khi đất nước ta tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc. Cùng với đó là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông và các phong tập tập quán đặc trưng của hai miền Nam, Bắc đã thể hiện đất nước ta là một đất nước có chủ quyền, có các anh hùng hào kiệt luôn cống hiến, chiến đấu hết mình để bảo vệ non sông.
Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Nếu các triều đại phương Bắc phát triển hưng thịnh thì các triều đại Việt Nam cũng phát triển hùng mạnh không kém. Điều đó đã thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc sâu sắc của tác giả.
Ông đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”.
Những tướng của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị các tướng giỏi của ta đánh cho thất bại. Chúng vì “tham công”, “thích lớn” nên phải chịu hậu quả nặng nề. Các sự kiện ấy còn được nhân dân ta lưu lại trong sử sách để muôn đời ghi nhớ.
Các phép đối, so sánh ngang hàng các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc cùng phép liệt kê và giọng điệu hào hùng, trang nghiêm ở đoạn thứ nhất của bài cáo đã thể hiện nổi bật tư tưởng nhân nghĩa, thương dân của Nguyễn Trãi.
Tham khảo bài ✅Thuyết Minh Về Tác Giả Nguyễn Trãi Lớp 10✅ Hay nhất
Bài văn cảm nghĩ về đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo hay nhất sau đây sẽ mang đến những ý văn hay và cách diễn đạt khéo léo, hấp dẫn người đọc.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập… Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc.
Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia.
Quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược, cụ thể là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân, gây ra bao tai hoạ.
Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
…….
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, NguyễnTrãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Đây chính là điểm sáng tạo cho thấy trí tuệ của Nguyễn Trãi.
Ở mỗi một quốc gia, nền văn hiến ngàn năm không ai có thể nhầm lẫn được, cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng. Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền.
Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “ Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thôn tính Đại Việt.
Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt.
Ngoài ra , để nhấn mạnh tư cách độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết sánh đôi nước ta và Trung Quốc: về bờ cõi, phong tục – hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề thua kém chúng.
Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhất:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu chúng tôi công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm.
Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.
Đại cáo bình Ngô tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Trong đó, phần đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã nêu được hai nội dung chính gần như hết bài cáo là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình.
Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.
Sinh ra trong một gia đình vốn có truyền thống yêu nước và văn học, Nguyễn Trãi đã sớm được tiếp xúc và thấu hiểu những tư tưởng nền tảng của Nho giáo. Nguyễn Trãi không chỉ là nhà Nho, bậc kì tài về chính trị và quân sự mà ông còn là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của thời đại.
Những sáng tác của Nguyễn Trãi luôn lấp lánh chủ nghĩa yêu nước sâu sắc và tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” là một trong số những tác phẩm như thế. Đặc biệt, đoạn mở đầu tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” đã nêu lên một cách rõ nét luận đề chính nghĩa làm tiền đề tư tưởng cho toàn bộ bài cáo.
Trước hết, đoạn mở đầu tác phẩm đã nêu lên tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc, độc đáo.
Như chúng ta đã biết, từ ngàn đời nay, trong hệ thống quan niệm tư tưởng của Nho giáo, “nhân nghĩa” là một quan niệm tư tưởng cốt lõi, nó thể hiện mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa con người với con người trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Xuất thân là một nhà nho, vì thế, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấu hiểu sâu sắc quan điểm này của Nho giáo và lựa chọn nó làm nền tảng tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ bài cáo.
Nhưng hết thế, với Nguyễn Trãi, nền tảng cốt yếu của “nhân nghĩa” chính là yên dân, là đem đến cho nhân dân cuộc sống bình yên, ấm êm và hạnh phúc. Đồng thời, ông cũng chỉ ra rằng, để dân được yên thì việc quan trọng cần phải làm đó chính là “trừ bạo”, là đánh đuổi những kẻ tàn bạo đang xâm lược nước ta và cả những kẻ tham tàn trong nước đã đẩy nhân dân vào cuộc sống cơ cực, khốn khó, lầm than.
Như vậy, có thể thấy, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi luôn gắn liền với nhân dân, lấy dân làm gốc, làm nền tảng và vì nhân dân mà đánh tan quân tàn ác.
Không chỉ nêu lên tư tưởng nhân nghĩa làm nền tảng chân lí vững chắc, trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên chân lí độc lập của dân tộc ta từ ngàn đời nay.
Chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn nhưng có lẽ cũng đủ để Nguyễn Trãi điểm lại một cách đầy đủ và rõ nét những truyền thống từ lâu đời của dân tộc, đó cũng chính là chân lí độc lập khách quan mà ông muốn đề cập tới. Nước Đại Việt cũng như bao dân tộc khác có nền văn hiến từ lâu đời, có lãnh thổ riêng đã được phân định rõ ràng và cùng với đó mỗi vùng miền đều có những nét phong tục, tập quán riêng, mang bản sắc riêng của dân tộc Đại Việt.
Thêm vào đó, với thủ pháp đối lập, tác giả Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại của nước Đại Việt sánh ngang với các triều đại phong kiến phương Bắc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà qua đó còn thể hiện niềm tự hào về những truyền thống, về lịch sử ngàn năm của dân tộc.
Thêm vào đó, trong những câu thơ kết thúc đoạn mở đầu của tác phẩm, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo điểm lại những chiến thắng lịch sử huy hoàng, vang dội của quân và dân ta trong lịch sử.
Tác giả đã đưa ra những chứng cứ, những sự việc đã xảy ra trong lịch sử với sự thất bại thảm hại của quân giặc – Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã như một lời khẳng định về sức mạnh, về sự chiến thắng tất yếu dành cho những con người, những dân tộc luôn đứng trên nền tảng của chính nghĩa để đấu tranh.
Tóm lại, có thể thấy, đoạn mở đầu của tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” với giọng văn hào hùng, tràn đầy niềm tự hào dân tộc, tác giả Nguyễn Trãi đã làm bật nổi tư tưởng chính nghĩa và chân lí độc lập khách quan của dân tộc. Chính điều đó là nền tảng tư tưởng vững chắc xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.
Tham khảo👉Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ ❤️️ 15 Mẫu
Gợi ý bạn cách viết văn cảm nhận đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo ngắn nhất thông qua bài văn mẫu sau đây.
Nhân nghĩa xưa nay vốn là một nội dung rất tích cực của Nho giáo. Đó là sự hi sinh, thương yêu và đùm bọc giữa con người với nhau. Thế nhưng, Nguyễn Trãi đã định nghĩa “nhân nghĩa” rất lạ. Theo ông “nhân nghĩa” tức là phải yêu dân, phải lo đặt hạnh phúc của nhân dân lên hàng đầu và hãy chiến đấu vì hạnh phúc đó.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Rõ ràng đây là một mục đích cao đẹp: Chiến đấu cho nhân dân. Thế đấy, đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” giờ đây không còn là khái niệm mà phải biến nó thành hành động, thành “việc nhân nghĩa”. Vì cái đích rất cụ thể là giải phóng đất nước, đưa nhân dân thoát khỏi kiếp lầm than, không phải làm thân phận súc nô và có nguy cơ bị diệt chủng.
Tiếp theo bài cáo, Nguyễn Trãi đã cất giọng, khẳng khái xưng danh hiệu tên nước: “Như nước Đại Việt ta từ trước” và khẳng định: “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đúng thế, đây là một quốc gia hoàn toàn độc lập, có một nền văn hiến đã rất lâu đời, có những “phong tục” tập quán rất riêng không trùng lặp với bất cứ quốc gia nào khác, và quan trọng hơn nữa, đã bao thế kỉ qua, nó vẫn cứ tồn tại bình đẳng và đầy kiêu hãnh bên cạnh cách triều đại của các hoàng đế Trung Hoa.
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Vâng, nước Đại Việt đã bao đời nay vẫn hùng mạnh như thế. Tuy đất nước này chỉ là một quốc gia nhỏ bé thôi nhưng cũng dám xưng “đế” như ai, quyết không chịu làm “vương” dưới chân kẻ khác và còn là một quốc gia đầy “nhân nghĩa”.
Và sau cùng, Nguyễn Trãi đã rất hả hê khi nhắc lại những chiến công oanh liệt do những anh hùng hào kiệt nước Đại Việt lập nên. Ông như muốn cười vào mũi bọn phương Bắc – cái lũ đã xem nước ta như một quận huyện nhỏ của chúng, cái lũ chỉ tham công, thích lớn, thậm chí còn trắng trợn muốn làm cỏ nước Nam – thế mà lại thua te tua và thảm hại, thua hết sức nhục nhã mỗi khi giao chiến với nước Nam nhỏ bé ấy:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.
Phần một của bài cáo là một lời khẳng định hết sức tự hào và đầy khoa học về đất nước: Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có một nền văn hiến hết sức lâu đời và nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lí sống nên mới có được nền văn hiến lâu đời đến như vậy, mới đánh thắng được bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ không có chút “nhân nghĩa” đó.
Hơn nữa, qua phần một của bài cáo, ta còn cảm nhận được tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với đất nước: Ông hết sức tự hào về non sông này và ông đã thể hiện niềm yêu nước thật mãnh liệt. Tấm lòng ấy chắc chắn sẽ không bao giờ phai nhạt theo năm tháng và thời gian.
Khám phá thêm👉 Cảm Nhận Độc Tiểu Thanh Kí ❤️️12 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Sau thời gian cầm cự và tạm hoà hoãn, từ năm 1424, Lê Lợi đã chuyển sang thời kì tổng phản công. Đến cuối năm 1427, khi 15 vạn quân tiếp viện của giặc tan tành, buộc Vương Thông phải giảng hoà. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã kết thúc thắng lợi. Đất nước ta bước vào thời kì mới. Trong không khí tưng bừng của toàn dân tộc đón mừng xuân chiến thắng, đầu năm 1428 Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi thảo bài Cáo này để tuyên bố với nhân dân cả nước biết: Cuộc kháng Minh đã thành công rực rỡ, đất nước trở lại thanh bình.
Mở đầu bài Cáo, tác giả khẳng định lập trường chính nghĩa của ta trên cơ sở đạo lý:
Nhân nghĩa là quan niệm tư tưởng nhân sinh của Nho giáo. Nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. Và cũng theo quan niệm của nho giáo, nhân nghĩa là cái gốc của sự việc. Trong thư số 8 trả lời Phương Chính, Nguyễn Trãi đã từng nói: “Phàm mưu đồ việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, làm nên công lớn phải lấy nhân nghĩa làm đầu”. Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến trong bài Cáo là “cốt ở yên dân”. Và vì thế muốn thực hiện được nó ta phải “trước lo trừ bạo”
Bằng hai câu mở đầu, không chỉ nêu nên tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi còn nhấn mạnh mục đích và phương tiện để thực hiện tư tưởng nhân nghĩa đó. Nhân nghĩa phải biết tiêu trừ tham tàn bạo ngược, bảo vệ cuộc sống yên ổn cho nhân dân. Nhân nghĩa mà tác giả nói tới là nhân nghĩa chân chính, chứ không phải giả nhân giả nghĩa như bọn giặc vẫn huênh hoang
Và cũng bằng cách vào đề lý luận khái quát, tác giả đã gây được không khí trang trọng thích hợp cho bài cáo và đồng thời xác định rõ lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là nhân nghĩa là phù hợp với đạo lí của thời đại thì sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Việt Nam là một chân lí khách quan.
Mà trước hết ông khẳng định sự tồn tại của nước Đại Việt như một chân lý khách quan:
Nền văn hóa Đại Việt, nền văn hóa Thăng Long được hình thành, xây dựng và phát triển qua một quá trình lịch sử “đã lâu”, đã có “từ trước” đằng đẵng mấy nghìn năm. Đại Việt không chỉ có lãnh thổ chủ quyền “sông núi bờ cõi”, mà còn có thuần phong mỹ tục mang bản sắc riêng, có lịch sử riêng, chế độ riêng “bao đời gây nền độc lập”, đã từng “xưng đế một phương, có nhiều nhân tài hào kiệt…”
Khác với ý trong bài Hịch, Tổ Quốc ở đây không phải được hình dung bằng thái ấp, bổng lộc, gia quyến, vợ con, tông miếu phần mộ…mà với Nguyễn Trãi, Tổ Quốc được định nghĩa bằng những khái niệm trừu tượng được rằng nước ta là một nước có cương vực lãnh thổ, có quá trình độc lập, có quốc hiệu, có văn hoá phong tục chứ không phải là một quận, một huyện của Trung Quốc, cũng không phải là một bộ lạc man di mọi rợ.
Đến đây, giọng điệu câu văn ngắn gọn, khoẻ, chắc, cách lập luận chặt chẽ như một lời tuyên bố đanh thép, tác giả đã nêu bật được sự tồn tại của một quốc gia nhỏ bé bên cạnh một quốc gia lớn trong không gian, thời gian, với truyền thống đấu tranh anh dung của nó.
Từ xa xưa chính sách đồng hóa của phong kiến Trung Quốc nhất là bọn giặc Minh rất hiểm độc. Chúng bắt nhân dân ta theo phong tục Trung Quốc, ăn mặc kiểu Trung Quốc, để tóc kiểu Trung Quốc, bó chân kiểu Trung Quốc, hòng làm cho ý thức dân tộc ta bị tiêu vong. Nhưng dân tộc ta vẫn tồn tại vì truyền thống đấu tranh anh dũng bất khuất của dân tộc:
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Dân tộc ta có một lịch sử chiến đấu oanh liệt, có thể sánh ngang với Trung Quốc. Những chiến công của anh hùng dân tộc ta như Ngô Quyền, Hưng Đạo còn ghi trong sử sách, những trận Bạch Đằng, Hàm Tử được muôn đời ca ngợi. Hãy xem: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị giết tươi, Ô Mã bị bắt sống. Đâu có phải là lời nói suông. Đó là một thực tế khách quan.
Và với lối diễn đạt sóng đôi tương phản, tác giả đã khẳng định được truyền thống đấu tranh cũng như tư thế độc lập tự cường của dân tộc ta. Ta nói đến truyền thống dân tộc để ta tự tin, giặc nghe để chúng kinh hoàng. Quả vậy, dân tộc ta chẳng những đã phát huy thắng lợi trong việc đấu tranh chống phong kiến Trung Quốc, mà còn tiếp tục đấu tranh đánh đổ ách thực dân Pháp, Nhật, Mỹ xâm lược. Và trước sau, thời nào cũng vậy, toàn thắng ắt về ta.
Phần một của bài cáo là một lời khẳng định hết sức tự hào và đầy khoa học về đất nước: Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có một nền văn hiến hết sức lâu đời và nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lí sống nên mới có được nền văn hiến lâu đời đến như vậy, mới đánh thắng được bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ không có chút “nhân nghĩa” đó.
Hơn nữa, qua phần một của bài cáo, ta còn cảm nhận được tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với đất nước: Ông hết sức tự hào về non sông này và ông đã thể hiện niềm yêu nước thật mãnh liệt. Tấm lòng ấy chắc chắn sẽ không bao giờ phai nhạt theo năm tháng và thời gian.
Tham khảo👉 Cảm Nhận Của Em Về Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích ❤️️13 Mẫu
Tham khảo cách diễn đạt sinh động, hấp dẫn thông qua bài văn mẫu cảm nhận về Bình Ngô Đại Cáo đoạn 1 chọn lọc sau đây.
Tinh thần yêu nước đã trở thành sợi dây nối kết và xuyên suốt các thời đại lịch sử Việt Nam. Chính tình yêu nước đã tạo nên động lực làm nên những chiến công vang dội của dân tộc. Đó cũng là tinh thần chung mà Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Tinh thần yêu nước, luận đề chính nghĩa được Nguyễn Trãi làm rõ qua đoạn 1 của tác phẩm.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi đã xác lập luận đề chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa.
“Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa là một tư tưởng được các nước phương Đông mặc nhiên thừa nhận. “Nhân nghĩa” là mối quan hệ giữa người với người được xây dựng trên cơ sở tình thương và đạo đức. Nếu tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm Nho giáo là cách đưa con người vào các mối quan hệ khuôn khổ phạm trù đạo đức để phục vụ cho mục đích quản lí xã hội của nhà cầm quyền.
Nhưng tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã trở thành mục đích của cuộc kháng chiến. Bởi đặt trong hoàn cảnh thực tiễn của đất nước, nhân nghĩa được cụ thể hóa thành yên dân. Nghĩa là làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Muốn nhân dân được ấm no thì phải diệt trừ bạo ngược, đặc biệt đó chính là quân Minh xâm lược.
Từ tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã chuyển hóa vào thực tiễn đất nước ta. Và đây cũng chính là mục đích chiến đấu, là lý tưởng cao đẹp mà suốt cuộc đời Nguyễn Trãi theo đuổi.
Khi phân tích đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo, ta thấy sau khi nêu cơ sở chính nghĩa của cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ bằng những căn cứ lịch sử vô cùng xác đáng kết hợp với lời văn dõng dạc hào hùng đầy tự tin.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
………….
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Các phương diện được Nguyễn Trãi nêu ra để khẳng định chủ quyền là văn hiến, địa phận, phong tục, nhà nước, nhân tài. Các phương diện ấy đều được trải dài theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc ta và đều mang dấu ấn riêng đại diện cho dân tộc. Đó là những nét khác biệt không lẫn vào đâu của văn hóa và phong tục tập quán. Có thể so về chiều dài lịch sử ta không bằng Trung Hoa, nhưng trong suốt chiều dài hình thành và tồn tại thì dân tộc ta đã để lại dấu ấn cùng tinh thần dân tộc mạnh mẽ.
Việc liệt kê các triều đại của nước Đại Việt song song với các triều đại Trung Hoa đã thể hiện rõ điều đó. Ta không hề kém cạnh Trung Hoa. Ta cũng có những nhà nước tự trị ngay từ buổi bình minh lịch sử dân tộc. Ta có chủ quyền lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán, có tổ chức nhà nước với người đứng đầu là vua.
Việc xưng đế đã thể hiện ý chí tự tôn dân tộc. Bởi lẽ trong quan niệm ngày xưa, chỉ có Trung Hoa được xưng đế còn vua của nước nhỏ chỉ được xưng chư hầu không được xưng đế. Việc xưng đế đã khẳng định chắc nịch một điều ta và Trung Hoa là những nước độc lập bình đẳng với nhau. Chính vì vậy không có lí do gì để Trung Hoa kéo quân xâm lược nước ta.
Điều quan trọng làm nên sự thịnh vượng của một vương triều không thể không kể đến yếu tố nhân tài. Nhân tài chính là vận mệnh đất nước. Trong cả một quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã có biết bao nhiêu vị anh hùng làm rạng danh non sông cũng như có biết bao nhiêu thế hệ với ngàn ngàn lớp lớp người vô danh đã ngã xuống để bảo vệ độc lập đất nước. Giọng thơ hào hùng, lập luận mạnh mẽ chặt chẽ thuyết phục từ những chứng cứ lịch sử xác đáng không thể chối cãi. Qua đó ta thấy được ý thức dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.
Bằng những lí lẽ sắc bén, cách lập luận chặt chẽ tài tình, Nguyễn Trãi đã nêu ra tiền đề nhân nghĩa của cuộc kháng chiến. Ta chiến đấu là để bảo vệ đất nước, chiến đấu vì mục đích nhân nghĩa – bảo vệ cuộc sống ấm no của nhân dân, chiến đấu vì độc lập dân tộc – bảo vệ cơ đồ nghìn năm của dân tộc ta, và cuối cùng chiến đấu vì không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước tình cảnh của đất nước, của nhân dân. Những hình ảnh mạnh mẽ, kết hợp với các biện pháp nghệ thuật đã tạo ra giọng điệu mạnh mẽ, đanh thép oai hùng cho bài thơ.
Với đoạn thơ súc tích ngắn gọn cùng với tài năng trong ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Trãi đã giúp làm nổi bật lên tư tưởng chính nghĩa của tác phẩm. Sâu xa trong ý nghĩa của bài cáo chính là tinh thần yêu nước, niềm tự hào tự tôn dân tộc mãnh liệt của tác giả.
https://youtu.be/oR5QduxbvFk
Đón đọc bài văn mẫu cảm nhận về đoạn 1 bài Đại Cáo Bình Ngô sinh động để làm phong phú hơn những ý văn của bạn.
Nếu như ở thế kỉ XI, giặc Tống hồn xiêu phách lạc khi nghe bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt, đến năm 1945, thực dân Pháp cũng chẳng còn lý do gì để tiếp tục “khai hóa, mẫu quốc” An Nam sau khi nghe những lời tuyên bố dõng dạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản “Tuyên ngôn Độc lập”, thì ở thế kỉ XV, áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng dân tộc Việt.
Ra đời sau chiến thắng giặc Minh vang dội của quân khởi nghĩa Lam Sơn, bài cáo là sự kết tinh của lòng yêu nước, ý chí đánh giặc quật cường của một dân tộc phải sống trong những ngày tháng đau thương, khổ nhục mà rất đỗi vinh quang. Cho đến ngày nay, “Bình Ngô đại cáo” được người đời coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước nhà.
Dù đã sáu thế kỉ trôi qua, nhưng chắc hẳn dân tộc ta vẫn luôn tự hào khi có một bản hùng văn tráng lệ như “Bình Ngô đại cáo”. Tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, khát vọng hòa bình, ý chí bất khuất trên con đường đấu tranh bảo vệ đất nước. Trong từng câu, từng chữ của Nguyễn Trãi chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Có sự kiên quyết, vững trãi trong lời mở màn đầu tiên:
Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đạo Nho, thể hiện cách hành xử tốt đẹp giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lý. Từ tư tưởng ấy, Nguyễn Trãi đã chắt lọc lấy hạt nhân cơ bản của tư tưởng nhân nghĩa: nhân nghĩa chủ yếu để yên dân, mà muốn cho dân yên thì trước hết phải lo tiêu diệt quân tàn bạo. Tư tưởng đó đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Đó chính là cơ sở để tác giả bóc trần những luận điệu xảo trá của giặc Minh, đồng thời khẳng định lập trường chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn và tính phi nghĩa của kẻ thù xâm lược.
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn đầy tự tin, bản lĩnh khẳng định chủ quyền của dân tộc ta, ông không chỉ khẳng định trên phương diện cương vực lãnh thổ, mà còn khẳng định ở những phương diện mang chiều sâu, thuộc về vốn văn hóa, truyền thống của mỗi dân tộc:
Tác giả đã liệt kê hàng loạt các yếu tố như: nền văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt đã xác lập một cách trọn vẹn về nền độc lập của nước nhà, cho thấy sự tồn tại hiển nhiên, vốn có từ lâu đời của một nước Đại Việt độc lập, có chủ quyền và văn hiến. Với giọng điệu đanh thép, dứt khoát, mang tính chất của một lời tuyên ngôn, ông đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc, đây là một bước tiến không hề nhỏ so với “Nam quốc sơn hà” được coi là bản tuyên ngôn độc lập trước đó.
So với “Sông núi nước Nam”, “Đại cáo bình Ngô” đã được Nguyễn Trãi nâng tầm chân lý độc lập một cách toàn diện, rất cụ thể chứ không mơ hồ. Cái toàn diện ấy được thể hiện qua việc Lý Thường Kiệt mới chỉ xác định được sự sống còn của một dân tộc ở hai phương diện, đó là lãnh thổ và chủ quyền. Trong khi đó, Nguyễn Trãi đã xác định định nghĩa của “dân tộc” trên nhiều phương diện khác nhau: từ lãnh thổ, nền văn hiến, phong tục tập quán đến lịch sử, chế độ và con người.
Còn nhớ trong “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt chỉ căn cứ vào “thiên thư” – sách trời, yếu tố tâm linh chứ không phải theo dòng lịch sử, còn Nguyễn Trãi đã ý thức rõ về văn hiến, truyền thống lịch sử và con người – những yếu tố thực tiễn cơ bản nhất, các hạt nhân xác định hai chữ “dân tộc”. Tuy nhiên sức thuyết phục trong cách khẳng định độc lập chủ quyền này ở chỗ nhà văn chính luận kiệt xuất ấy đem đặt trong thế so sánh giữa hai quốc gia Đại Việt với Đại Hán.
Không xét đến các yếu tố lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, mà xét theo việc có hay không, thì cả năm yếu tố nhà văn chỉ ra hai đất nước, hai dân tộc đều tương xứng. Cách khẳng định chân lý độc lập vì thế mà có giá trị cao hơn, vừa chắc chắn vừa nâng tầm vị thế của dân tộc ta ngang hàng với dân tộc, quốc gia Đại Hán.
Hơn nữa, các từ ngữ như “từ trước”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác”, “bao đời”,… liên tiếp nhau cho thấy sự tồn tại hiển nhiên, vốn có, lâu đời của một nước Đại Việt độc lập, có chủ quyền và văn hiến, cũng lâu như thể sự tồn tại của đế cường phương Bắc. Cách khẳng định chủ quyền ấy chính là một đòn giáng chí mạng vào những kẻ đang “thừa cơ gây họa” đối với dân tộc ta.
Và sau cùng, Nguyễn Trãi đã rất hả hê khi nhắc lại những chiến công oanh liệt do những anh hùng hào kiệt nước Đại Việt lập nên. Ông như muốn cười vào mũi bọn phương Bắc – cái lũ đã xem nước ta như một quận huyện nhỏ của chúng, cái lũ chỉ tham công, thích lớn, thậm chí còn trắng trợn muốn làm cỏ nước Nam – thế mà lại thua te tua và thảm hại, thua hết sức nhục nhã mỗi khi giao chiến với nước Nam nhỏ bé ấy:
Phần đầu của bài cáo là một lời khẳng định hết sức tự hào về đất nước: Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có một nền văn hiến hết sức lâu đời và nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lí sống nên mới có được nền văn hiến lâu đời đến như vậy, mới đánh thắng được bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ không có chút “nhân nghĩa” đó. Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc.
Cách liệt kê, lồng ghép dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, cùng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta ở “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,.. thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung tham công”, “Triệu Tiết thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm.
Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù có thế nào đi chăng nữa, đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.
Nhà thơ Xuân Diệu từng nói: “Trước Lê Lợi, đã từng có chiến thắng oanh liệt đuổi sạch quân Nguyên xâm lược ở thời nhà Trần, sau thời Lê Lợi, sẽ có chiến thắng thần tốc của vua Quang Trung đánh đuổi 20 vạn quân Thanh xâm lược, nhưng trong văn học sử chỉ có một áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi các lẽ: không có ba Nguyễn Trãi để viết ba áng văn khải hoàn mà lịch sử đòi hỏi ở ba thời điểm, mà chỉ có một Nguyễn Trãi cụ thể, hiệu Ức Trai, ở đầu triều Lê cùng với tài thao lược kinh bang tế thế, đã có cái thiên tài viết văn”.
Sau Bình Ngô đại cáo, văn học trung đại còn xuất hiện nhiều áng văn nghị luận khác nhưng có lẽ không sáng tác nào có đủ khả năng để vượt lên tính chất hùng tráng mà bản đại cáo này mang lại. Đọc áng “thiên cố hùng văn” này, ta đã phần nào cảm nhận được sức mạnh hơn mười vạn quân từ mỗi trang nghị luận của nhà tư tưởng, nhà văn kiệt xuất Nguyễn Trãi. “Bình Ngô Đại cáo” đã và đang giữ được giá trị và tầm ảnh hưởng qua các thế kỉ, khẳng định tài năng và ngòi bút vượt trội của Nguyễn Trãi.
Áng “thiên cổ hùng văn” ấy được cả một quốc gia, một dân tộc ghi nhận, được đất trời, quần chúng chứng giám, là niềm tự hào của mọi thế hệ người dân Đại Việt về chiến công lừng lẫy, đánh đuổi ngoại xâm. Đây xứng đáng được coi là tác phẩm chính luận xuất sắc nhất của văn học thời kì Trung Đại.
Văn mẫu cảm nhận đoạn 1 bài Đại Cáo Bình Ngô hay là một trong những tư liệu đặc sắc cần thiết cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến một nhà nho yêu nước hết lòng, không những yêu nước, ông còn biết cách truyền đạt nó đến với mọi người thông qua ngòi bút tài hoa của mình. Nguyễn Trãi có vốn hiểu biết sâu rộng trong nhiều lĩnh vực, hơn cả là chính trị và văn chương. Sự nghiệp văn chương của ông bừng sáng với những tác phẩm như: Bình Ngô đại cáo, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập,…. Trong số đó Bình Ngô đại cáo được coi là tác phẩm tiêu biểu, làm tên tuổi Nguyễn Trãi sáng ngời trên văn đàn.
Ở Bình Ngô đại cáo, đoạn một cho ta nhiều cảm nhận sâu sắc về tư tưởng nhân nghĩa – yên dân của một nhà nho-thi sĩ. Trong câu thơ đầu tiên Nguyễn Trãi đã mượn lời để bài tỏ tư tưởng cá nhân đồng thời cũng là quan niệm tư tưởng nho giáo của nước ta lúc bấy giờ :
“ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Hai câu thơ hàm chứa tư tưởng lỗi lạc trong nho giáo, bởi lẽ nhân nghĩa chính là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người bao đời qua. Tư tưởng nhân nghĩa này được tác giả vận dụng vào chính trị để đưa ra bài học cho con cháu đời sau, ý chỉ nhân nghĩa phải lấy dân làm gốc, nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn với “yên dân” và “trừ bạo”, đây cũng là tư tưởng cốt lõi xuyên suốt bài cáo.
Ở các câu tiếp theo tác giả tự hào đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể từ lịch sử nghìn năm văn hiến với giọng điệu đanh thép:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
…..
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Đọc từng câu chữ, ta thấy nể phục trước một tượng đài bất tử của văn chương, chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn, tác giả đã điểm qua hàng loạt các triều đại cũng như truyền thống lâu đời của dân tộc với giọng điệu tự hào. Nhưng không vì đó mà câu thơ mang tính chủ quan, bởi ở đoạn thơ trên Nguyễn Trãi tự hào so bề nước ta với các triều đại khác để đặt Đại Việt trong cái nhìn khách quan về lịch sử. Bằng cách này, người đọc sẽ không thể phủ nhận sự đúng đắn trong vấn đề mà tác giả muốn đề cập.
Dẫn chứng được ông chọn lọc vô cùng thuyết phục, rằng Đại Việt là nước độc lập có nền văn hiến lâu đời, có truyền thống tốt đẹp và có nền văn hóa riêng biệt, mỗi vùng miền trên đất nước đều mang những phong tục tập quán khác nhau. Bên cạnh đó, nhà thơ còn so sánh ta cùng các triều đại phong kiến phương Bắc với giọng điệu hùng hồn. Tất cả như một lời nhấn mạnh, lời tuyên bố cho sự tồn tại độc lập chủ quyền của một quốc gia.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, người đọc vẫn chưa thấy hết được giá trị truyền thống tốt đẹp của một dân tộc xứng danh anh hùng. Vì vậy, ông điểm qua các sự kiện lịch sử lừng lẫy khiến ngoại bang phải khiếp sợ:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.”
Mỗi chiến công được liệt kê vô cùng rõ ràng từ địa điểm, đến kết quả, sở dĩ tác giả muốn nêu ra hàng loạt như vậy không chỉ để thể hiện lòng tự hào của một con dân đối với một đất nước mà còn ẩn ý răng đe giặc ngoại xâm về thất bại của tổ tiên chúng.
Ở một góc nhìn rộng hơn ta thấy được, Nguyễn Trãi đang đưa ra một lời tuyên bố trịnh trọng, Đại Việt là nước có nền văn hiến, có truyền thống văn hóa, có nhân tài nhiều đời,… có đầy đủ yếu tố cần thiết để hưởng độc lập tự chủ. Nếu kẻ nào có ý định xâm phạm, thì hiển nhiên cuộc đấu tranh nổi dậy sẽ là một cuộc đấu tranh chính nghĩa bảo vệ tổ quốc, bảo vệ lợi ích nhân dân.
Đoạn 1 của Bình Ngô đại cáo mang đậm dấu ấn chính luận song vẫn có sự xen lẫn của cảm hứng trữ tình nhằm khơi gợi cảm xúc cho người đọc. Trải dài đoạn trích là tư tưởng nhân nghĩa xuyên suốt được nhấn mạnh, đó không đơn thuần là tư tưởng mang giá trị lịch sử mà đó chính là bài học là lời răn dạy thế hệ mai sau cần học hỏi.
Qua đoạn 1, Nguyễn Trãi đã thành công thể hiện quan niệm cũng như tư tưởng cần truyền đạt một cách tài ba thông qua câu chữ. Để rồi ta cảm được từng luồng nóng rạo rực nơi tim như cảm xúc của tác giả sống dậy ngày trước, đó là niềm tự hào là con của nước Việt, là sự xúc động trước bao lớp anh hùng nằm xuống để có được đất nước hôm nay. Vì lẽ đó, chúng ta là những thế hệ trẻ cần rèn giũa, học tập để góp phần gìn giữ, phát triển đất nước ngày một vững mạnh hơn.
Tham khảo 👉Cảm Nhận Chị Em Thúy Kiều Và Thuý Vân ❤️️
Văn mẫu cảm nhận Bình Ngô Đại Cáo đoạn 1 ngắn hay sau đây sẽ giúp các em học sinh nắm bắt được phương pháp làm bài và nâng cao kỹ năng viết.
Nguyễn Trãi (1380-1942), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, quân sự tài ba và lỗi lạc, ông tham gia tích cực và đóng góp nhiều nhiều công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi với vai trò là một quân sư. Với những công trạng vĩ đại của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nguyễn Trãi đã trở thành bậc khai quốc công thần đời đầu của nhà Hậu Lê.
Có thể thấy, tư tưởng của Nguyễn Trãi gồm có ba điểm chính thứ nhất là tư tưởng nhân nghĩa, thứ hai là tư tưởng phụng mệnh trời và cuối cùng là tư tưởng nhân dân, tiến bộ hẳn so với các danh nhân, nghĩa sĩ cùng thời. Và hệ thống tư tưởng này ta có thể nhận thấy rõ trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Bình ngô đại cáo, tác phẩm được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc sau Nam quốc sơn hà.
Mở đầu bài cáo Nguyễn Trãi đã nêu ra các luận đề chính nghĩa với mục đích làm cơ sở, căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo.
Đầu tiên Nguyễn Trãi nêu ra tư tưởng nhân nghĩa thể hiện ở việc yêu thương con người, được bộc lộ thông qua các hành động cụ thể bao gồm “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, nghĩa là người đứng đầu một đất nước phải có trách nhiệm bảo vệ cuộc sống bình yên, ấm no cho nhân dân. Kéo theo việc bảo vệ cuộc sống bình yên đó thì “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, vốn là một tích xuất phát từ điển cố trong Kinh thư, ngụ ý muốn “yên dân” thì phải tiêu trừ tham tàn bạo ngược, những thế lực đã phá vỡ sự bình yên của nhân dân.
Từ đó thấy được quan điểm mới mẻ, tiến bộ vượt thời đại của Nguyễn Trãi: Nhân nghĩa tức là gắn với việc yêu dân, chuộng hòa bình, và gắn với lòng yêu nước sâu sắc.
Luận đề thứ hai mà Nguyễn Trãi đề cập đó là sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt ta từ bao đời nay, được tác giả khẳng định như một chân lý khách quan thông qua năm yếu tố cơ bản để chứng minh cho luận đề trên của mình. Bao gồm nền văn hiến độc lập đã tồn tại từ lâu đời “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”, bao gồm cương vực lãnh thổ riêng “núi sông bờ cõi đã chia”, rồi về văn hóa chúng ta cũng có phong tục tập quán riêng khi “phong tục Bắc Nam cũng khác”.
Xét về khía cạnh lịch sử, nếu như phương Bắc có Hán, Đường, Tống, Nguyên thì nước Đại Việt ta cũng chẳng kém cạnh khi có Triệu, Đinh, Lý, Trần những triều đại đã bao lần gây nền độc lập. Truyền thống lịch sử riêng này còn được cụ thể hóa trong những câu thơ “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau/Song hào kiệt thời nào cũng có”, khẳng định đời nào, triều đại nào chúng ta cũng có những anh hùng vang danh sử sách, lập nên những chiến công vĩ đại để bảo vệ nền độc lập dân tộc của chúng ta, khiến kẻ thù biết bao phen thất bại, khốn đốn.
Vậy nên mới có những chuyện như “Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô; Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”, đó đã là những chứng cứ, những sự thực minh bạch không thể chối cãi, in hằn trong từng trang sử sách của nước Đại Việt ta bao đời nay.
Và cuối cùng kết lại những yếu tố trên là lời khẳng định chủ quyền độc lập riêng của dân tộc trong ý thơ “mỗi bên xưng đế một phương” thể hiện phong thái tự tin, mạnh mẽ, ý thức tự cường dân tộc của Nguyễn Trãi trong việc khẳng định nền độc lập, bờ cõi của đất nước. Rằng vua nước Nam chỉ xưng “đế”, chứ không xưng “vương” theo cái kiểu mạt sát, khinh thường của nước phương Bắc, xem chúng ta là nước chư hầu, phụ thuộc vào “thiên triều” của chúng.
Mà ta có thể thấy rõ ở bài cáo này Nguyễn Trãi đã hoàn toàn phủ nhận cái quan điểm ngạo mạn ấy, khẳng định sự tách biệt giữa hai quốc gia dân tộc trên tất cả các lĩnh vực bao gồm địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, chủ quyền lãnh thổ tạo nên một hệ thống lý luận, căn cứ vững chắc để triển khai tiếp các luận đề phía sau.
Có thể nói rằng Nguyễn Trãi đã rất tinh tế khi xây dựng một khái niệm về quốc gia dân tộc dựa trên 5 yếu tố trên, đây là một bước tiến rất lớn, hoàn thiện định nghĩa về tổ quốc so với bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất chỉ bao gồm 2 yếu tố lãnh thổ và chủ quyền riêng, thể hiện tài năng lý luận và tầm tư duy của một nhân tài kiệt xuất đi trước thời đại.
Thêm vào đó ngoài nội dung chính của luận đề, sự thuyết phục của quan điểm trên còn nằm ở cái cách mà tác giả Nguyễn Trãi sử dụng các từ ngữ như: từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác. Mà tất cả những từ ngữ này lại thuộc cùng một trường khẳng định sự hiển nhiên, vốn có, lâu đời của chân lý mà tác giả đã nêu ra.
Bình Ngô đại cáo đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nên độc lập của dân tộc là áng thiên cổ hùng văn còn mãi giá trị nghìn đời sau của đất nước ta. Về nghệ thuật, đó là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận, thể hiện ở kết cấu lý luận chặt chẽ, lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn, và chất văn chương nghệ thuật thể hiện ở lời văn rất giàu cảm xúc, câu văn giàu hình tượng.
Tham khảo bài văn mẫu cảm nhận đoạn 1 của Bình Ngô Đại cáo điểm cao sẽ giúp bạn đọc có được những cảm nhận sâu sắc hơn về nội dung và ý nghĩa của bài cáo này.
Trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhân vật lịch sử có tên tuổi, được biết đến với trí võ song toàn. Trí tuệ, tài năng và phẩm chất của ông là ánh sao khuê không bao giờ lụi tắt, soi sáng tới tận muôn đời sau. Không chỉ đóng góp cho cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, góp phần lập ra nhà Hậu Lê, ông còn để lại sự nghiệp văn chương đồ sộ với những áng văn chương mẫu mực, văn chính luận sắc bén.
“Bình ngô đại cáo” là áng “thiên cổ hùng văn ” trong lịch sử , tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước nhà, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của nhân dân. Đoạn đầu của tác phẩm đã khẳng định được tư tưởng nhân nghĩa cùng chân lý độc lập của dân tộc Đại Việt.
Bài cáo được mở đầu bằng một tư tưởng nhân nghĩa có ảnh hưởng sâu sắc từ Nho giáo. Khái niệm nhân nghĩa theo tác giả chính là tư tưởng, hành động vì con người, đấu tranh cho lẽ phải để bảo vệ cho đời sống của con người. Đời sống nhân dân no ấm, hạnh phúc thì đất nước mới có thể phát triển bền vững được.
Vì vậy, những người đứng đầu đất nước phải lo việc yên dân, trừ bạo, dẹp yên được bọn xâm lược và cả bè lũ tay sai của chúng ở trong nước để bảo vệ cuộc sống của nhân dân. Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là muốn yên ổn dân chúng thì phải dẹp được bạo loạn và những thế lực làm cho dân khổ.
Tiếp theo, tác giả Nguyễn Trãi đã khẳng định được nền độc lập vĩnh cửu trường tồn của Đại Việt: có nền văn hiến từ lâu đời, có anh hùng hào kiệt, có các triều đại phong kiến sánh ngang với các triều đại Trung Quốc, có phong tục tập quán, có núi sông phân định rõ ràng. Bằng giọng văn đanh thép hào hùng, Nguyễn Trãi đã truyền được lòng tự hào dân tộc sánh ngang với các triều đại xâm lược. Nhờ những bằng chứng sắc sảo mà bài cáo đã được ví như Bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, khẳng định việc xâm lược của triều đại trung quốc là sai trái.
Cuối cùng, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại những thất bại thảm hại của quân giặc sang xâm chiếm Đại Việt. Bằng những từ ngữ miêu tả sự thảm bại của quân giặc và tự hào về những chiến công oanh liệt của dân tộc, người đọc thấy được 1 tinh thần hào sảng của nhà thơ.
Tóm lại, giá trị của Bình ngô đại cáo là trường tồn mãi mãi với dân tộc. Bình Ngô đại cáo được so sánh là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai và có sức tồn tại vĩnh cửu trong nền văn học Việt Nam.
Bài văn cảm nhận đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo lớp 10 hay xuất sắc sẽ giúp các em học sinh hoàn thành tốt đề văn này và đạt được điểm số cao cho bài viết của mình.
Nguyễn Trãi không chỉ là một bậc quân thần yêu nước mà ông còn có tài năng văn thư độc nhất vô song. Đặc biệt, trong gia tài văn học đồ sộ của thi hào, thì “Bình ngô Đại Cáo” vẫn được coi là “áng thiên cổ hùng văn” giữa dòng chảy lịch sử của thời đại. Dẫu qua bao nhiêu thế hệ vẫn lưu danh sử sách muôn đời. Đoạn thơ một trích trong “Bình ngô Đại Cáo” một lần nữa đã cho thấy sự mới mẻ, tiến bộ trong cách nhìn, cũng như quan niệm về độc lập, chủ quyền và những giá trị nhân văn cốt lõi cao đẹp của Nguyễn Trãi.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
“Nhân nghĩa” là tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt cả tác phẩm Bình ngô đại cáo, đó là tư tưởng yêu thương dân, mà rộng hơn là lòng thương người , đồng thời cũng là sự đề cao những hành động chính nghĩa, xả thân vì lý tưởng lớn, không vì quỷ kế hèn mọn mà chịu khuất phục. Tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi được ảnh hưởng khá nhiều bởi tư tưởng của đạo Phật, do đó mà thấm nhuần tính nhân văn và những chân giá trị truyền thống của dân tộc.
Nhân nghĩa với Nguyễn Trãi là “yên dân”, nghĩa là làm sao để nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, an lạc, thái bình, thịnh trị, không có chiến tranh loạn lạc xảy ra khắp nơi. Muốn được như thế, điều mà quân điếu phạt phải làm, cần phải nêu cao đó là “trừ bạo”. Chỉ khi diệt trừ các thế lực bạo tàn, đang lăm le xâm lược bờ cõi nước ta thì dân chúng may ra mới không phải chịu cảnh loạn lạc, tan tác thương vong và được sống trong yên ổn.
Chỉ những gì xuất phát từ trái tim mới có thể “chạm đến hồn muôn người”, tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi không gì hơn đã khiến độc giả cảm động bởi tấm lòng yêu thương dân đen con đỏ, một lòng vì nước, vì dân. Do đó, nó là chân giá trị được ngợi ca và truyền tụng bao thế hệ.
Từ những trở trăn khôn nguôn về việc nước tình dân, nhà thơ phóng chiếu cái nhìn của mình về vấn đề chủ quyền dân tộc, về độc lập, tự do của giang sơn:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Trong đoạn thơ trên, một lần nữa thi hào Nguyễn Trãi khẳng định nền văn hiến lâu đời, khẳng định chiều dài lịch sử nghìn năm văn hiến của dân tộc, lập luận một cách hào sảng những chiến tích lừng lẫy của cha ông ta để góp phần giữ giang sơn vững chắc.
Như trước đó, trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả Lý Thường Kiệt cũng khẳng định độc lập về chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc, nhưng dựa vào những chứng cứ sách lực siêu nhiên là “thiên thư”, phần nào có sự trừu tượng, xa xôi. Nhưng đến Nguyễn Trãi, ông đã lấy quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc để làm bảo chứng, do đó vô cùng thuyết phục, gần gũi, mà rất đỗi thiêng liêng cao cả. Đồng thời, việc đặt ngang hàng nước ta với các nước phương Bắc phần nào giúp ta thấy được niềm tự hào, vẻ vang của chiều dài lịch sử dân tộc.
Đặc biệt, trong đoạn thơ này, Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thể hiện niềm tin sắt đá vào các thế hệ anh hùng hào kiệt, hiền tài quốc gia, đặt vào trong bối cảnh lúc bấy giờ, đó phần nào cũng thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ của thi hào Nguyễn Trãi.
Để tiếp tục khẳng định những chiến tích hào sảng của dân tộc, nhà thơ tiếp tục đưa ra một loạt dẫn chứng thép khẳng định đanh thép, người đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”.
Thất bại đấy của quân địch không chỉ thể hiện tham vọng cuồng vọng của quân địch, phải chuốc lấy tiêu vong, mà còn phần nào thể hiện khí thế hào hùng, tầm vóc lớn lao của anh hùng dân tộc. Đồng thời, nó giống như một bản bảo chứng hùng hồn, đanh thép cho những kẻ muốn lăm le xâm lược đất nước ta, rằng chúng chắc chắn sẽ chuốc lấy bại vong. Cách dùng những dẫn chứng mang tính liệt kê dồn dập phần nào giúp ta thấy được mạch khí thế oai phong, lẫm liệt, niềm tự hào vang dội của người viết bài cáo.
Đại cáo Bình Ngô, giống như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai đầy hào sảng của dân tộc Đại Việt. Đoạn thơ một vừa mở đầu như một khúc hùng ca hân hoan, vang vọng chiến công, chiến tích lẫy lừng để đanh thép buộc tội quân giặc man rợ ở phía sau.
Hướng dẫn cách 🔥Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí🔥 cực hay
Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Đoạn 1 Bài Bình Ngô Đại Cáo (Dàn Ý + 8 Mẫu) Phân Tích Đoạn 1 Đại Cáo Bình Ngô
Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo
a) Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo
Nguyễn Trãi là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, nhà văn nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.
Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc ta.
– Dẫn dắt và nêu vấn đề: nội dung đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo.
b) Thân bài: Phân tích nội dung đoạn 1 Bình Ngô đại cáo
* Luận điểm 1: Tư tưởng nhân nghĩa.
– “Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí.
Nhân: người, tình người (theo Khổng Tử)
Nghĩa: việc làm chính đáng vì lẽ phải (theo Mạnh Tử)
– “Nhân nghĩa” trong quan niệm của Nguyễn Trãi:
Kế thừa tư tưởng Nho giáo: “yên dân” – làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, hạnh phúc
Cụ thể hóa với nội dung mới đó là “trừ bạo” – vì nhân dân diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
* Luận điểm 2: Lời tuyên ngôn độc lập.
– Nguyễn Trãi đã xác định tư cách độc lập của nước Đại Việt bằng một loạt các dẫn chứng thuyết phục:
Nền văn hiến lâu đời
Cương vực lãnh thổ riêng biệt
Phong tục Bắc Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc
Lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần, hào kiệt đời nào cũng có.
– Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại Việt.
* Luận điểm 3: Lời răn đe quân xâm lược.
Nguyễn Trãi đã sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ chống lại chân lí:
Lưu Cung – vua Nam Hán thất bại với chủ ý thu phục Đại Việt.
Triệu Tiết – tướng nhà Tống thua nặng khi cầm quân đô hộ nước ta.
Toa Đô, Ô Mã,… là các tướng nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng khi cầm quân xâm lược.
* Đặc sắc nghệ thuật
Ngôn ngữ đanh thép
Giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ
Sử dụng các biện pháp so sánh, liệt kê,…
Sử dụng những câu văn song hành,…
c) Kết bài
– Khái quát lại nội dung đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo.
1. Mở bài
Qua “Bình Ngô Đại Cáo”, Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng yêu nước ở một tư tưởng mới đầy nhân văn và cao đẹp, đó là tư tưởng nhân nghĩa ở đời. Khổ thơ đầu của tác phẩm thể hiện rõ nhất điều đó.
2. Thân bài
– “Việc nhân nghĩa” chỉ những hành động chính nghĩa vì dân, lấy dân làm gốc
– Việc nhân nghĩa trước nhất là phải lo trừ bạo
– Khẳng định văn hiến, chủ quyền lãnh thổ, phong tục tập quán, nhân tài của Đại Việt
– Đại Việt qua bao thời đại vẫn đứng vững và kiêu hãnh trên trường quốc tế
– Sự thất bại thảm hại của những kẻ bất nhân làm việc phi nghĩa
3. Kết bài
Khái quát giá trị tác phẩm: Ngôn ngữ đầy khảng khái, tứ thơ hùng hồn, mạnh mẽ cùng một trái tim lớn vì dân vì nước của Nguyễn Trãi đã tạo nên một tác phẩm văn học xuất sắc, trở thành một bản tuyên ngôn bất hủ của dân tộc.
Nhắc đến những nhà văn chính luận lỗi lạc của văn học trung đại chúng ta không thể nào không nhắc đến Nguyễn Trãi. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất với các tác phẩm: “Quân trung từ mệnh tập”, các chiếu biểu viết dưới thời nhà Lê và tiêu biểu nhất là tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Các áng văn chính luận này đã thể hiện được lòng yêu nước, thương dân của tác giả.
Ngay câu đầu bài cáo đã bộc lộ tư tưởng nhân nghĩa ấy:
“Nhân nghĩa” là tấm lòng thương yêu người, là những hành động vì lợi ích của nhân dân, cộng đồng. Bên cạnh đó, “nhân nghĩa” cũng là sự tôn trọng lẽ phải, bênh vực lẽ phải. Chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” là “yên dân”, “trừ bạo”, cuộc sống và sự no ấm của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Giữa con người phải có tình yêu thương lẫn nhau, cùng chiến đấu để bảo vệ đất nước, thoát khỏi đời sống khổ cực, lầm than. Để được như vậy thì phải diệt trừ những kẻ bạo tàn, những thế lực xâm lược hung hãn, đó chính là giặc Minh đang xâm chiếm đất nước ta lúc bấy giờ. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc.
Để khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã đưa ra những dẫn chứng xác đáng và vô cùng thuyết phục:
Nền văn hiến đã có từ lâu đời và được hình thành từ khi đất nước ta tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc. Cùng với đó là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông và các phong tập tập quán đặc trưng của hai miền Nam, Bắc đã thể hiện đất nước ta là một đất nước có chủ quyền, có các anh hùng hào kiệt luôn cống hiến, chiến đấu hết mình để bảo vệ non sông. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Nếu các triều đại phương Bắc phát triển hưng thịnh thì các triều đại Việt Nam cũng phát triển hùng mạnh không kém. Điều đó đã thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc sâu sắc của tác giả.
Ông đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:
Những tướng của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị các tướng giỏi của ta đánh cho thất bại. Chúng vì “tham công”, “thích lớn” nên phải chịu hậu quả nặng nề. Các sự kiện ấy còn được nhân dân ta lưu lại trong sử sách để muôn đời ghi nhớ. Các phép đối, so sánh ngang hàng các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc cùng phép liệt kê và giọng điệu hào hùng, trang nghiêm ở đoạn thứ nhất của bài cáo đã thể hiện nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của tác giả.
Ông đã vạch trần, tố cáo những tội ác mà quân Minh xâm lược thực hiện với nhân dân ta:
Quân Minh đã lợi dụng “chính sự phiền hà” của nhà Hồ để chớp lấy thời cơ xâm chiếm nước ta. Bước chân xâm lược của chúng giày xéo lên đất nước ta khiến nhân dân vô cùng oán hận, căm thù. Cũng lợi dụng điều đó mà bọn gian tà chỉ biết nghĩ đến lợi ích của cá nhân đã tiếp tay cho kẻ thù xâm lược để mang lại những vinh hoa, lợi lộc cho bản thân mà không chiến đấu vì nhân dân, tổ quốc.
Giặc Minh đã gây ra những tội ác không thể dung tha:
Nhân dân ta phải chịu cảnh khổ cực, lầm than dưới gót chân xâm lược của chúng. Chúng đem “nướng”, “vùi” nhân dân ta trên ngọn lửa và “dưới hầm tai vạ”. Chúng cai trị nhân dân ta bằng các loại thuế vô lí, các kế sách lừa lọc nham hiểm và cả sự tra tấn dã man, hung bạo. Những người dân vô tội phải chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề của giặc Minh.
Không chỉ vậy, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên của dân tộc ta:
Chịu sự đô hộ của quân Minh cũng đồng nghĩa với việc nhân dân ta phải đối mặt với sự cai trị tàn bạo và những hành động hung hãn của chúng. Chúng vô nhân tính đến mức bắt ép dân đen “xuống biển dòng lưng mò ngọc”, “vào núi đãi cát tìm vàng”, bắt nhân dân ta đến những nơi nguy hiểm luôn rình rập, đe dọa đến tính mạng để tìm kiếm những vật có giá trị cho quân cuồng Minh. Nhân dân ta bị biến thành nô lệ cho kẻ thù và cũng là miếng mồi ngon cho các loài động vật cá mập, thuồng luồng hung dữ. Chúng xâm chiếm nước ta để vơ vét hết sản vật quý hiếm như chim trả dùng để làm áo và đệm, hươu đen dùng để làm vị thuốc bổ. Có thể nói, tham vọng xâm lược nước ta của giặc Minh vô cùng lớn.
Không chỉ đẩy dân ta vào nguy hiểm, chết chóc mà chúng còn “tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”. Do quân Minh “máu mỡ bấy no nê chưa chán”, xây nhà đắp đất liên miên nên nhân dân ta rơi vào cảnh ngộ đầy bi thương, khốn khổ:
Ngay cả trúc Nam Sơn, nước Đông Hải cũng không thể ghi hết tội ác và rửa sạch mùi dơ bẩn của quân xâm lược. Những hành động tàn ác, dã man của chúng khiến trời đất cũng không thể dung tha huống chi là con người. Câu hỏi tu từ cuối đoạn thứ hai đã nhấn mạnh thêm một lần nữa tội ác của kẻ thù. Chúng ta không thể nào tha thứ cho những kẻ đã tàn sát đồng bào, tàn hại cả cây cỏ thiên nhiên của đất nước mình.
Hình ảnh đối lập giữa những người dân đen vô tội bị bóc lột tàn bạo và kẻ thù vô nhân tính cùng giọng điệu cảm thương, đanh thép, lí luận sắc bén đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Hai đoạn đầu của bài cáo là bản cáo trạng hùng hồn tố cáo những hành động dã man của quân Minh. Đó là minh chứng tiêu biểu nhất cho sự khổ cực, áp bức, sự cướp bóc, bóc lột trắng trợn mà nhân dân ta phải gánh chịu trong suốt thời gian chúng “Gây binh kết oán trải hai mươi năm”.
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, mà còn là nhà văn nhà thơ lớn của dân tộc. Nhắc đến ông, chúng ta nhớ ngay đến tác phẩm nổi tiếng “Bình ngô đại cáo”. Đây được coi là áng thiên cổ hùng văn bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Nhan đề Bình Ngô đại cáo đã gợi cho ta nhiều suy nghĩ. Bình có nghĩa là dẹp yên. Ngô ở đây chỉ giặc Minh. Đại cáo là bài cáo lớn mang dấu ấn trọng đại về những sự kiện lớn của đất nước. Ngay từ nhan đề đã gợi ra một tâm thế hào hùng.
Phân tích đoạn 1 bình ngô đại cáo để thấy tư tưởng nhân nghĩa là nội dung xuyên suốt cả bà thơ, được ông thể hiện rõ ràng, đầy đủ và sâu sắc. Chúng ta có thể thấy ngay tư tưởng nhân nghĩa, lòng tự hào, tự tôn dân tộc được thể hiện ngay ở đoạn 1 của bài thơ.
Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở hai câu đầu.
Mở đầu bài cáo, tác giả đã khẳng định đanh thép về định nghĩa tư tưởng nhân nghĩa. Theo phạm trù của Nho giáo, nhân nghĩa là chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lý. Việc nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của các cuộc khởi nghĩa. Việc nhân nghĩa là vì con người, vì lẽ phải. Theo quan niệm của Nguyễn Trãi, kế thừa từ tư tưởng Nho giáo nhân nghĩa là “yên dân” – làm cho cuộc sống của người dân yên ổn, hạnh phúc. Lấy dân làm gốc là quy luật tất yếu bao đời nay. Đây luôn là hoài bão ước mơ mà cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi.
Việc nhân nghĩa còn có nghĩa là trừ bạo, giúp dân trừng trị những kẻ hành hạ, cướp bóc, bóc lột, mang lại bình yên, no ấm cho nhân dân. Nói rộng ra trừ bạo chính là chống lại giặc xâm lược. Tác giả đã nêu rõ ta là chính nghĩa, còn địch là phi nghĩa. Ông đã vạch trần sự xảo trá của giặc Minh trong cuộc xâm lược này. Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt, để mang đến cho nhân dân thoát khỏi cuộc sống lầm than, khổ cực, đem lại no ấm cho nhân dân.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc
8 câu thơ tiếp theo tác giả đã khẳng định chủ quyền dân tộc, khẳng định giá trị của tự do bằng việc nhắc lại trang sử hào hùng của dân tộc ta một cách đầy vẻ vang, tự hào.
Tác giả dẫn chứng xác thực đầy thuyết phục. Nước Đại Việt ta đã hình thành từ trước với nền văn hiến đã có từ lâu đời, tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử. Ở đây tác giả dùng từ “xưng” để thể hiện sự tự hào, khẳng định chỗ đứng, vị thế của dân tộc ta.
Không chỉ dừng lại ở việc khẳng định lãnh thổ và chủ quyền độc lập, tác giả nhắc đến văn hiến, lịch sử, phong tục, tập quán và nhân tài đất nước. Như vậy, đây chính là những yếu tố mới để tạo thành một quốc gia độc lập. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ông khẳng định lãnh thổ “Núi sông bờ cõi đã chia”, không kẻ nào được xâm phạm, chiếm lấy. Hơn nữa, phong tục tập quán, văn hóa mỗi miền Bắc Nam cũng khác, không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được.
Đặc biệt khi nhắc đến các triều đại trị vì xây nền độc lập, tác giả đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần ngang hàng với “Hán, Đường, Tống Nguyên của Trung Quốc vừa có ý liệt kê, vừa có ý đối đầu. Điều đó cho thấy lòng tự hào dân tộc mãnh liệt, ý thức về tự tôn, yêu nước cực kỳ lớn của tác giả. Và ở triều đại nào, thời nào thì hào kiệt đều có. Đây vừa thể hiện lòng yêu nước, tự hào vừa răn đe đối với quân xâm lược muốn thôn tính Đại Việt. Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thể hiện niềm tin sắt đá vào các thế hệ anh hùng hào kiệt, hiền tài quốc gia. Đặt vào trong bối cảnh lúc bấy giờ, điều đó phần nào cũng thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ của thi hào Nguyễn Trãi.
Sau khi khẳng định chủ quyền dân tộc, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc, nhà thơ đã dùng biện pháp liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ đi ngược lại với chân lý. Những dẫn chứng của ông từ các đời vô cùng thuyết phục. Lưu Cung là vua Nam Hán từng thất bại vì tham lam muốn thu phục Đại Việt; Triệu Tiết tướng của nhà Tống đã thua nặng khi cầm quân sang đô hộ nước ta, Toa Đô, Ô Mã… là các tướng của nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng tại nước ta khi cầm quân sang xâm lược… “Chứng cớ còn ghi”, không thể chối cãi được. Đây chính là lời cảnh cáo, răn đe đanh thép với chứng cớ đầy đủ, thuyết phục, rõ rành rành đối với kẻ phi chính nghĩa khi xâm phạm đến lãnh thổ của nước ta. Mượn lời thơ đanh thép, ông tuyên bố với kẻ thù: bất kỳ kẻ nào lăm le xâm chiếm bờ cõi Đại Việt đều sẽ phải gánh chịu thất bại ê chề. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.
Với giọng văn đĩnh đạc, hào hùng, lý lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt cân xứng, song đôi của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của nước Đại Việt.
Đoạn mở đầu của Bình ngô đại cáo như một khúc dạo đầu đầy hào sảng, hào hùng về chủ quyền Tổ quốc. Những vần thơ đanh thép, những dẫn chứng xác thực, lý lẽ chặt chẽ được nhà thơ đưa ra đã mang lại giá trị lớn về tinh thần dân tộc mạnh mẽ, về độc lập chủ quyền dân tộc, về tư tưởng lấy dân làm gốc, ắt sẽ chiến thắng… Bình ngô đại cáo là áng hùng thi được ví như bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc. Qua những vần thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta càng thêm tự hào về truyền thống, lịch sử, văn hiến của đất nước.
Từ xưa cho đến nay, ngoài bản Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố cho nền độc lập, cho chủ quyền lãnh thổ của đất nước ta thì còn có hai áng thiên cổ hùng văn khác cũng được coi như là hai bản tuyên ngôn độc lập bất hủ trong lịch sử. Đó là Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một thời đại với những hoàn cảnh khác nhau, những cái nhìn khác nhau, song ta thấy ở mỗi một bản tuyên ngôn những giá trị về tư tưởng vô cùng tiến bộ và đúng đắn. Nếu như tác phẩm Nam quốc sơn hà đã khẳng định chắc chắn về chủ quyền lãnh thổ, bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh cho thấy quyền con người lớn lao thì Bình Ngô đại cáo lại là một khía cạnh khác. Đó là tư tưởng phải chăm lo cho muôn dân, yêu dân và dẹp trừ bạo loạn, để cuộc sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua đoạn 1 của tác phẩm.
Tác giả đã xem “nhân nghĩa” không chỉ là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau của con người mà còn nâng lên một ý nghĩa sâu sắc và khái quát hơn, “việc nhân nghĩa” ở đây chính là việc làm mà hành động vì nhân dân, mong nhân dân được yên bình, an ổn, được hưởng thái bình, hạnh phúc, ấm no. Việc nhân nghĩa là phải lo cho dân, cho nước, phải làm việc nghĩa trên lợi ích của nhân dân, lấy dân làm gốc, hành sự cũng vì dân. Vậy nên làm gì để đúng theo tư tưởng nhân nghĩa trong thời đại lúc bấy giờ? Trước nhất là phải lo trừ bạo, phải lo diệt giặc xâm lăng “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, bờ cõi có yên, lãnh thổ có không còn bóng giặc xâm lăng thì nhân dân mới yên lòng mà lao động, mà sản xuất để phát triển đất nước. Đó là một tinh thần lớn, tinh thần dân tộc cao nhất, một tinh thần chính nghĩa xuất phát từ sự yêu thương và tấm lòng thiết tha cho con dân đất Việt.
Sau tư tưởng nhân nghĩa ấy, tác giả Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định nền văn hiến tốt đẹp được gây dựng từ bao đời của con người nước Việt:
Nước ta có truyền thống văn hiến từ xa xưa, nước ta có phong tục, tập quán riêng, nét đẹp của truyền thống, văn hóa được người Việt gây dựng từ bao đời “Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần”. Không chỉ khẳng định nền văn hiến lâu đời trong niềm tự hào mà Nguyễn Trãi còn mạnh mẽ khẳng định sự bình đẳng, độc lập của con người, đất nước ta với các triều đại phương Bắc “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Truyền thống đấu tranh đầy anh dũng, bất khuất của các triều đại Đinh Lý Trần Lê có thể sánh ngang với các triều đại Hán ,Đường, Tống, Nguyên. Đại Việt ta tuy nhỏ bé về lãnh thổ mà tinh thần không nhỏ, vẫn xưng vương, bờ cõi độc lập, mạnh mẽ, không chịu nhún mình dưới quyền uy kẻ khác, tấm lòng Đại Việt cũng vì thế mà rộng lớn biết bao. Đất Việt cũng có hào kiệt bốn phương, vang danh sử sách, nhân tài giỏi giang cả về mưu cơ, chiến lược, văn võ song toàn. Những yếu tố đó đã góp phần dựng xây nên một Đại Việt hùng hồn, trên mọi chiến trận luôn giành thắng lợi:
Trước sự xâm lăng ngang ngược, bạo tàn của kẻ thù, tinh thần chiến đấu của Đại Việt ta nôi nỗi, quyết tâm hơn bao giờ hết, bao chiến công lẫy lừng, oanh liệt được Nguyễn Trãi kể ra chứa chan những cảm xúc tự hào. Những kẻ tự xưng lớn mạnh, huênh hoang tự đắc, làm điều phi nghĩa sau cùng cũng phải gặm nhấm lấy từng thất bại mà thôi, từ Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã, … đều phải nhận lấy những thất bại cay đắng. Qua câu thơ, tác giả Nguyễn Trãi cũng thể hiện được niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của chính nghĩa trước những hành động bạo tàn, vô nhân tính của kẻ thù. Cuối cùng, chính nghĩa mãi mãi là nguồn ánh sáng cao đẹp soi sáng con đường đấu tranh của dân tộc.
Đoạn thơ tuy ngắn mà không chỉ nêu lên được tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời mà còn khẳng định nền độc lập, tổng kết lại được những chiến công hào hùng của dân tộc. Ngôn ngữ đầy khảng khái, tứ thơ hùng hồn, mạnh mẽ cùng một trái tim lớn vì dân vì nước của Nguyễn Trãi đã tạo nên một tác phẩm văn học xuất sắc, trở thành một bản tuyên ngôn bất hủ của dân tộc
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập… Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràng:
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia.
Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Đây chính là điểm sáng tạo cho thấy trí tuệ của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một quốc gia, nền văn hiến ngàn năm không ai có thể nhầm lẫn được, cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng. Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “ Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt.
Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ngoài ra , để nhấn mạnh tư cách độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết sánh đôi nước ta và Trung Quốc: về bờ cõi, phong tục – hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề thua kém chúng.
Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhất:
Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu chúng tôi công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.
Đại cáo bình Ngô tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Trong đó, phần đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã nêu được hai nội dung chính gần như hết bài cáo là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình. Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, bên cạnh bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn có hai áng thiên cổ hùng văn cũng được xem là hai bản tuyên ngôn cho nền độc lập, cho chủ quyền lãnh thổ của dân tộc ta – đó là Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ở mỗi thời điểm cùng với hoàn cảnh khác nhau tác động đến, những góc nhìn khác nhau của mỗi tác giả thế nhưng tựu chung lại, những “bản tuyên ngôn” này đều thể hiện một tư tưởng đầy tiến bộ và đúng đắn. Nếu như ở Nam quốc sơn hà là một lời khẳng định chắc nịch về chủ quyền lãnh thổ, bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh lại thể hiện về quyền con người, quyền được hưởng độc lập, tự do mà không một thế lực nào có thể xâm phạm tới. Với Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã đặt vào đó tư tưởng phải chăm lo cho dân, yêu dân và gắng hết sức dẹp trừ bạo loạn để nhân dân có được một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tư tưởng này của ông được thể hiện rõ ràng nhất ở đoạn đầu tiên của tác phẩm.
Ngay mở đầu tác phẩm, lý tưởng chủ đạo của toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi thể hiện một cách rõ ràng:
Tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi đã trở thành một lý tưởng xã hội, trở thành một chân lý đúng đắn suốt ngàn đời nay: phải chăm lo cho nhân dân thì cuộc sống, đất nước mới được bình yên. Tác giả không chỉ nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà đã đưa ra được điều cốt lõi và giá trị nhất của nó. Bên cạnh đó, nhân nghĩa trong tư tưởng của Nguyễn Trãi còn gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền đất nước và khẳng định tinh thần độc lập của dân tộc:
Nếu như ở Nam quốc sơn hà ra đời 400 năm trước, Lý Thường Kiệt chỉ nói tới lãnh thổ và chủ quyền độc lập để xác định các yếu tố của một quốc gia độc lập thì tới Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm các yếu tố về văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài – những yếu tố cần thiết nữa để tạo nên một quốc gia độc lập. Đây chính là một điểm sáng của sự sáng tạo cũng như tài năng của tác giả. Với mỗi quốc gia, nền văn hiến chính và một thứ không thể thay đổi, không thể xoá bỏ hay nhầm lẫn với bất kì một nơi nào. Nước Đại Việt cũng có một nền văn hiến từ rất lâu đời, núi sông bờ cõi cũng đã được phân chia rõ ràng và cũng có phong tục tập quán khác biệt. Nguyễn Trãi chỉ ra điều này bởi ông muốn nhấn mạnh rằng nước Đại Việt có những sự riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay trộn lẫn với bất kì một quốc gia hay nền văn hoá nào khác được. Ngoài ra, để lập luận của mình càng trở nên chặt chẽ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều Đại “Triệu, Đinh, Lý, Trần” ngang hàng với “Hán, Đường, Tống, Nguyên” ở Trung Quốc để cho người đọc thấy được sự tồn tại song song của các triều đại, một lần nữa khẳng định mạnh mẽ chủ quyền. Đây là một sự đối sánh vô cùng tinh tế, thể hiện tài năng cũng như một niềm tự hào dân tộc, niềm yêu nước mãnh liệt của đại thi hào của dân tộc. Một yếu tố quan trọng cuốc cùng mà ông nhắc tới chính là nhân tài để khẳng định rằng dù thời thế có đổi thay, khi yếu khi mạnh thế nhưng đấng hào kiệt thì lúc nào cũng có. Câu thơ ngắn gọn nhưng lại đanh thép, thể hiện sức mạnh con người của nước Đại Việt cũng như một lời nhắc nhở, răn đe với những kẻ có ý đồ muốn xâm chiếm nước ta. Với các yếu tố trên, tác giả đã khái quát một cách rõ nét nhất về một nền độc lập toàn diện của đất nước ta.
Ngay sau khi đưa ra và phân tích năm yếu tố của một quốc gia có độc lập chủ quyền, Nguyễn Trãi lại đưa ra thêm những bằng chứng đầy sức thuyết phục để khẳng định nền độc lập quốc gia, đó chính là sự thất bại của phương Bắc trong các cuộc chiến với mưu đồ xâm chiếm, đô hộ nước ta:
Tác giả đã tổng hợp lại những chiến tích đầy hiển hách, oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến để chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập của đất nước. Bằng việc liệt kê ra những chứng cứ đầy rõ ràng, thuyết phục cùng với những lời lẽ hào hùng, thể hiện sự tự tôn dân tộc chúng ta đã thấy được ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi cũng như sự căm thù với những kẻ lăm le xâm lược bờ cõi của ta. Chỉ với một đoạn thơ ngắn nhưng tác giả đã khẳng định một cách mạnh mẽ rằng Đại Việt là một quốc gia có đầy đủ những yếu tố của một quốc gia độc lập, tự chủ, chẳng hề có sự thua kém với bất kỳ quốc gia nào. Con người nước Đại Việt sẽ luôn đồng sức, đồng lòng đứng lên để chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc vì chính nghĩa, vì lẽ phải, vì một cuộc sống ấm no của nhân dân nên bất kể kẻ nào muốn xâm lược cũng sẽ phải chịu một kết quả thảm hại.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một tác phẩm vừa mang tính hào hùng vừa có những cảm hứng trữ tình hiếm thấy ở một tác phẩm chính luận. Đoạn trích nói riêng và tác phẩm Bình Ngô đại cáo nói chung có những giá trị vô cùng sâu sắc, có ý nghĩa đối với đất nước ta. Tác phẩm đã khẳng định nền độc lập, chủ quyền của đất nước cũng như cho người đọc hiểu thêm về chủ quyền lãnh thổ, tinh thần dân tộc của cha ông ta ngày trước để ngày càng bồi đắp lên lòng yêu nước, sự tự hào dân tộc trong mỗi người.
Năm 1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại rừng núi Lam Sơn – Thanh Hóa. Sau 10 năm chiến đấu gian lao và anh dũng, quân ta đã quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập, tự do cho đất nước và dân tộc.
Đầu xuân năm 1428, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi viết bài “Bình Ngô đại cáo”, tổng kết những chiến công oanh liệt trong 10 năm kháng chiến và tuyên bố Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới “Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.
Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, đồng thời ca ngợi nền vàn hiến rực rỡ lâu đời của Đại Việt. Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta:
Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, tất cả đều hướng về con người, về nhân dân đang bị áp bức lầm than. Thương dân, đánh kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt lũ tham tàn, bạo ngược (trừ bạo), cứu nhân dân thoát khỏi chết chóc đau thương, đem lại cuộc sống yên vui hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa.
Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc để cứu nước, cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Việc nhân nghĩa nên rất chính nghĩa. Nhân nghĩa là sức mạnh vô địch để chiến thắng quân “cuồng Minh”.
Nhân dân ta giàu nhân nghĩa nên lấy nhân nghĩa để xây dựng và phát triển nền văn hiến lâu đời, rực rỡ của Việt Nam. Nếu ở “Nam quốc sơn hà”, Lí Thường Kiệt chỉ mới nói đến sông núi nước Nam là nơi “Nam đế cư”, lãnh thổ thiêng liêng ấy đã được “định phận rõ ràng ở sách Trời”, thì ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đứng trên đỉnh cao thời đại “Bình Ngô” đã có một cái nhìn mới sâu sắc và toàn diện về đất nước, nhân dân Đại Việt:
Nước Đại Việt đâu phải “man đi mọi rợ” mà rất đáng tự hào.Có nền văn hiến đã lâu, Có lãnh thổ, núi sông, bờ cõi, Có thuần phong mĩ tục, Có nền độc lập trải qua nhiều triều đại “xưng để một phương”,Có nhân tài hào kiệt.
Năm yếu tố ấy hợp thành đã tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh Đại Việt để đánh bại mọi âm mưu xâm lược bành trướng của Thiên Triều, lập nên bao chiến công chói lọi.
Giọng văn đĩnh đạc hào hùng. Lí lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt sóng đôi, cân xứng của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của Đại Việt, biểu lộ một ý chí, tự cường dân tộc cao độ.
Phần mở đầu đã góp phần thể hiện tuyệt đẹp giá trị tư tưởng và nghệ thuật của “Bình Ngô đại cáo”, bản tuyên ngôn độc lập, áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc.
Nhân nghĩa xưa nay vốn là một nội dung rất tích cực của Nho giáo. Đó là sự hi sinh, thương yêu và đùm bọc giữa con người với nhau. Thế nhưng, Nguyễn Trãi đã định nghĩa “nhân nghĩa” rất lạ. Theo ông “nhân nghĩa” tức là phải yêu dân, phải lo đặt hạnh phúc của nhân dân lên hàng đầu và hãy chiến đấu vì hạnh phúc đó.
Rõ ràng đây là một mục đích cao đẹp: Chiến đấu cho nhân dân. Thế đấy, đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” giờ đây không còn là khái niệm mà phải biến nó thành hành động, thành “việc nhân nghĩa”.
Vì cái đích rất cụ thể là giải phóng đất nước, đưa nhân dân thoát khỏi kiếp lầm than, không phải làm thân phận súc nô và có nguy cơ bị diệt chủng.
Tiếp theo bài cáo, Nguyễn Trãi đã cất giọng, khẳng khái xưng danh hiệu tên nước: “Như nước Đạ Việt ta từ trước” và khẳng định: “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đúng thế, đây là một quốc gia hoàn toàn độc lập, có một nền văn hiến đã rất lâu đời, có những “phong tục” tập quán rất riêng không trùng lặp với bất cứ quốc gia nào khác, và quan trọng hơn nữa, đã bao thế kỉ qua, nó vẫn cứ tồn tại bình đẳng và đầy kiêu hãnh bên cạnh cách triều đại của các hoàng đế Trung Hoa.
Vâng, nước Đại Việt đã bao đời nay vẫn hùng mạnh như thế. Tuy đất nước này chỉ là một quốc gia nhỏ bé thôi nhưng cũng dám xưng “đế” như ai, quyết không chịu làm “vương” dưới chân kẻ khác và còn là một quốc gia đầy “nhân nghĩa”.
Và sau cùng, Nguyễn Trãi đã rất hả hê khi nhắc lại những chiến công oanh liệt do những anh hùng hào kiệt nước Đại Việt lập nên. Ông như muốn cười vào mũi bọn phương Bắc – cái lũ đã xem nước ta như một quận huyện nhỏ của chúng, cái lũ chỉ tham công, thích lớn, thậm chí còn trắng trợn muốn làm cỏ nước Nam – thế mà lại thua te tua và thảm hại, thua hết sức nhục nhã mỗi khi giao chiến với nước Nam nhỏ bé ấy:
Phần một của bài cáo là một lời khẳng định hết sức tự hào và đầy khoa học về đất nước: Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có một nền văn hiến hết sức lâu đời và nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lí sống nên mới có được nền văn hiến lâu đời đến như vậy, mới đánh thắng được bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ không có chút “nhân nghĩa” đó. Hơn nữa, qua phần một của bài cáo, ta còn cảm nhận được tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với đất nước: Ông hết sức tự hào về non sông này và ông đã thể hiện niềm yêu nước thật mãnh liệt. Tấm lòng ấy chắc chắn sẽ không bao giờ phai nhạt theo năm tháng và thời gian.
Nguyễn Trãi không chỉ là một bậc quân thần yêu nước mà ông còn có tài năng văn thư độc nhất vô song. Đặc biệt, trong gia tài văn học đồ sộ của thi hào, thì “Bình ngô Đại Cáo” vẫn được coi là “áng thiên cổ hùng văn” giữa dòng chảy lịch sử của thời đại. Dẫu qua bao nhiêu thế hệ vẫn lưu danh sử sách muôn đời. Đoạn thơ một trích trong “Bình ngô Đại Cáo” một lần nữa đã cho thấy sự mới mẻ, tiến bộ trong cách nhìn, cũng như quan niệm về độc lập, chủ quyền và những giá trị nhân văn cốt lõi cao đẹp của Nguyễn Trãi.
“Nhân nghĩa” là tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt cả tác phẩm Bình ngô đại cáo, đó là tư tưởng yêu thương dân, mà rộng hơn là lòng thương người , đồng thời cũng là sự đề cao những hành động chính nghĩa, xả thân vì lý tưởng lớn, không vì quỷ kế hèn mọn mà chịu khuất phục. Tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi được ảnh hưởng khá nhiều bởi tư tưởng của đạo Phật, do đó mà thấm nhuần tính nhân văn và những chân giá trị truyền thống của dân tộc. Nhân nghĩa với Nguyễn Trãi là “yên dân”, nghĩa là làm sao để nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, an lạc, thái bình, thịnh trị, không có chiến tranh loạn lạc xảy ra khắp nơi. Muốn được như thế, điều mà quân điếu phạt phải làm, cần phải nêu cao đó là “trừ bạo”. Chỉ khi diệt trừ các thế lực bạo tàn, đang lăm le xâm lược bờ cõi nước ta thì dân chúng may ra mới không phải chịu cảnh loạn lạc, tan tác thương vong và được sống trong yên ổn. Chỉ những gì xuất phát từ trái tim mới có thể “chạm đến hồn muôn người”, tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi không gì hơn đã khiến độc giả cảm động bởi tấm lòng yêu thương dân đen con đỏ, một lòng vì nước, vì dân. Do đó, nó là chân giá trị được ngợi ca và truyền tụng bao thế hệ.
Từ những trở trăn khôn nguôi về việc nước tình dân, nhà thơ phóng chiếu cái nhìn của mình về vấn đề chủ quyền dân tộc, về độc lập, tự do của giang sơn:
Trong đoạn thơ trên, một lần nữa thi hào Nguyễn Trãi khẳng định nền văn hiến lâu đời, khẳng định chiều dài lịch sử nghìn năm văn hiến của dân tộc, lập luận một cách hào sảng những chiến tích lừng lẫy của cha ông ta để góp phần giữ giang sơn vững chắc. Nếu như trước đó, trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả Lý Thường Kiệt cũng khẳng định độc lập về chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc, nhưng dựa vào những chứng cứ sách lực siêu nhiên là “thiên thư”, phần nào có sự trừu tượng, xa xôi. Nhưng đến Nguyễn Trãi, ông đã lấy quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc để làm bảo chứng, do đó vô cùng thuyết phục, gần gũi, mà rất đỗi thiêng liêng cao cả. Đồng thời, việc đặt ngang hàng nước ta với các nước phương Bắc phần nào giúp ta thấy được niềm tự hào, vẻ vang của chiều dài lịch sử dân tộc. Đặc biệt, trong đoạn thơ này, Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thể hiện niềm tin sắt đá vào các thế hệ anh hùng hào kiệt, hiền tài quốc gia, đặt vào trong bối cảnh lúc bấy giờ, đó phần nào cũng thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ của thi hào Nguyễn Trãi.
Để tiếp tục khẳng định những chiến tích hào sảng của dân tộc, nhà thơ tiếp tục đưa ra một loạt dẫn chứng thép khẳng định đanh thép, người đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:
Thất bại đấy của quân địch không chỉ thể hiện tham vọng cuồng vọng của quân địch, phải chuốc lấy tiêu vong, mà còn phần nào thể hiện khí thế hào hùng, tầm vóc lớn lao của anh hùng dân tộc. Đồng thời, nó giống như một bản bảo chứng hùng hồn, đanh thép cho những kẻ muốn lăm le xâm lược đất nước ta, rằng chúng chắc chắn sẽ chuốc lấy bại vong. Cách dùng những dẫn chứng mang tính liệt kê dồn dập phần nào giúp ta thấy được mạch khí thế oai phong, lẫm liệt, niềm tự hào vang dội của người viết bài cáo.
Đại cáo Bình Ngô, giống như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai đầy hào sảng của dân tộc Đại Việt. Đoạn thơ một vừa mở đầu như một khúc hùng ca hân hoan, vang vọng chiến công, chiến tích lẫy lừng để đanh thép buộc tội quân giặc man rợ ở phía sau.
Biểu Cảm Về Mùa Đông ❤️️ 15 Bài Văn Cảm Nghĩ Hay Nhất
Biểu Cảm Về Mùa Đông ❤️️ 15 Bài Văn Cảm Nghĩ Hay Nhất ✅Tham Khảo Tuyển Tập Những Bài Văn Đặc Sắc Biểu Cảm Về Mùa Đông.
I. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu về mùa đông
Xuân qua ,hạ tới ,thu về rồi sang đông Mùa đông là mùa của giá lạnh, của sự héo tàn.Nhưng chính cái lạnh lẽo đã khiến con người gần nhau hơn, quây quần bên lò sưởi ấm áp.Em rất thích mùa đông dù lạnh giá nhưng cũng thật ấm cúng
II. Thân bài:
Tả cảnh vật thiên nhiên mùa đông
Gió mùa đông Bắc tràn về khắp không gian
Cây bàng khẳng khiu trút toàn bộ lá
Lá khô xào xạc dưới chân người qua đường
Bầu trời ảm đạm một màu xám xịt
Những cơn mưa lạnh
Tả Cảnh con người khi đông về
Mọi người ai cũng khoác trên mình những chiếc áo khoác để chống lại cơn gió lạnh của mùa
Ai ai ra đường cũng bước thật vội, làn tóc bay trong gió lộng
Trở về nhà thật nhanh để được sưởi ấm trong bầu không khí ấm áp của gia đình
III. Kết bài: Nêu cảm xúc, suy ngẫm của bản thân với mùa đông
Có bao giờ bạn tự hỏi: “Tại sao người ta hay thích mùa xuân, hạ, thu mà lại bỏ rơi mùa đông?”. Bởi vì mùa đông lạnh lẽo và bầu trời u ám ư? Hay vì cây cỏ xác xơ úa tàn? Đấy chỉ là một khía cạnh rất nhỏ, mùa đông cũng có những nét đáng yêu riêng biệt còn giấu kín bên trong những lớp lá khô úa tàn đấy!
Hay vào buổi đêm sương giá, đang say sưa nghe nhạc trong đệm ấm, chăn êm, bạn chợt nghe một tiếng rao lanh lảnh: “Ai bánh mì, bánh khúc nóng không?”. Tiếng rao yếu ớt dần rồi như bị cuốn theo cơn gió ào ào. Thế là bạn vùng dậy và chạy ra… Vậy là mùa đông gợi mở tấm lòng bạn. Mùa đông thắp những ngọn nến yêu thương ngời sáng trong vô vàn trái tim nhân ái. Mùa đông tưởng như lạnh lẽo mà lại ấm áp tình người.
Bạn thấy mùa đông thật đáng yêu và tốt bụng với mọi người nhưng còn mình thì sao? Mùa đông luôn phải gắng sức, vượt lên sự khắc nghiệt! Sao vậy? Vì mùa đông phải chắt chiu cho mình từng giọt nắng hiếm hoi. Một chiều đông bất chợt, vài giọt nắng rớt xuống bên hiên nhà lặng lẽ, mùa đông nở một nụ cười mừng rỡ, lòng tràn ngập niềm vui sướng. Lúc đó, gió không thổi mạnh nữa, bầu trời trở nên thoáng đãng, hiền hòa hơn.
Mùa đông yêu nắng lắm nhưng sao nắng dành cho mùa đông lại ít ỏi? Vậy chúng ta có thể góp cho mùa đông một chút nắng không? Có chứ ! Bạn hãy nhìn những bông cải vàng kia. Đó là màu vàng của nắng đấy! Chắc chắn mùa đông sẽ sung sướng rạng ngời nhờ sắc vàng hoa cải, các bạn nhỉ?
Gợi ý cho bạn đọc bài văn mẫu biểu cảm về mùa đông ngắn gọn, súc tích sau đây.
Nếu có ai hỏi em yêu thích mùa nào nhất trong năm, em sẽ ngay lập tức trả lời đó là mùa đông. Có lẽ trong cảm nhận của nhiều người, cái lạnh giá của mùa đông cùng những cơn mưa phùn bất chợt có thể mang đến những phiền toái thì em lại thấy mùa đông thật đặc biệt bởi nó mang đến những thay đổi thật mới mẻ, ấn tượng cho không gian.
Vào mùa đông tiết trời trở nên lạnh giá, để chống lại cái lạnh của thời tiết, mọi người đều mặc lên người những trang phục thật ấm áp. Một trong những lí do em yêu thích mùa đông là bởi mùa đông sẽ được mặc lên người những chiếc len nhiều màu sắc, được diện đôi găng tay thật dễ thương mà mẹ mới đan. Mùa đông không chỉ mang đến sự thay đổi lớn về thời tiết mà còn làm cho khung cảnh xung quanh biến đổi theo, tiết trời mùa đông vẫn trong xanh nhưng thường xuyên xuất hiện những cơn mưa phùn, những hàng cây khẳng khiu, trơ trọi vào mùa thu thì đến mùa đông bắt đầu đâm chồi, nảy lộc. Những giọt mưa đọng lại trên tán lá non tựa như những giọt sương thật đẹp.
Em yêu thích mùa đông bởi trong cái lạnh cắt da cắt thịt của thời tiết, những bữa cơm gia đình trở nên ấm áp lạ thường. Mùa đông tuy có khắc nghiệt về thời tiết nhưng lại có thể mang đến những hình ảnh, những ấn tượng thật đẹp trong cảm nhận của em.
Bầu trời mùa đông trên quê hương thật nhanh và bất ngờ. Không còn bầu trời xanh ngắt thăm thẳm cao vời vợi của mùa thu, không còn mùi hương bưởi thoang thoảng trong vườn bà, không còn sắc vàng rực rỡ của hoa cúc. Mà thay vào đó bầu trời trở nên xám hơn, mây nặng nề hơn cảnh sắc nhuốm màu u ám.
Buổi sớm mùa đông trên con đường làng không còn tiếng cười nói nhộn nhịp của các bà, các mẹ cùng nhau ra chợ mà thay vào đó những chiếc áo khoác dày, những tiếng xuýt xoa bởi cái lạnh giá cùng những bước chân hối hả trên đường khiến cảnh vật trầm buồn hơn. Cây cối trong vườn nhà cũng im lìm, không còn những tán lá xanh mướt hay tiếng chim ríu rít mỗi buổi sớm đầu hè. Chú gà trống cũng dậy muộn hơn và đôi khi còn không chịu cất tiếng gáy, ông mặt trời cũng lười biếng, uể oải, trong khi chị gió vẫn vun vút ngoài trời như muốn trêu đùa và mang những chiếc lá còn sót lại trên cây đi tới một nơi xa.
Ao làng cũng trầm buồn nằm ngủ không chịu đánh thức những chú cá hay bác cóc dậy tắm nắng như những ngày hè. Những thửa ruộng nằm ngủ giấc dài sau một mùa vụ vất vả để lấy sức cho những mùa vụ tiếp theo để giúp những người nông dân mang về những hạt thóc căng tròn. Bác tre già đang cùng chị gió hát vang những bài hát mùa đông ồn ã.
Mùa đông đi kèm với những cơn mưa lạnh buốt khi thì dữ dội, khi lại rả rích nhưng cũng đủ khiến con người lạnh thấu từng thớ thịt. Khi những ánh nắng yếu ớt cố trải dài trên đường phố thì gió bắt đầu nổi lên mang theo những đám mây đầy hơi nước và chẳng mấy chốc những hạt mưa đầu tiên như nhảy dù xuống mặt đất. Mưa rơi, nước lênh láng khắp mặt sân, trải dài trên đường đất, tí tách rơi trên hiên nhà , hối thúc những bước chân trên đường vội vã hơn để trở về nhà. Nếu không có việc thì mùa đông con người sẽ chỉ muốn vùi mình trong chăn ấm với những giấc ngủ thật ngon lành.
Rồi cũng có khi mưa ngớt, nắng cũng có khi gắng mình lên lỏi vào song cửa nhà bên, cùng chiếc lá bàng đỏ ối cố thắp lên chút lửa xua tan đi cái lạnh giá của mùa đông. Tường nhà bên những bông hoa trạng nguyên vẫn phô mình trong gió như chẳng cảm nhận hơi lạnh của mùa đông. Thấp thoáng đâu đó trên con đường làng những chiếc khăn quàng đỏ trên vai cùng những tiếng gọi nhau í ới của học sinh trên đường về nhà sau giờ tan học. Tất cả tạo nên bức tranh làng quê mộc mạc, dịu dàng và đầy gam màu độc đáo trong thời tiết mùa đông.
Mùa đông khiến mọi người dân ít ra đường hơn, mọi hoạt động trở nên chậm rãi hơn, nhưng cũng mang theo bao khác lạ, bao nét độc đáo cho thời tiết của đất nước Việt Nam xinh đẹp. Và mọi người cũng như cây cối có thời gian nghỉ ngơi sau bao ngày vất vả làm việc. Bức tranh làng quê cũng được khắc họa ở nhiều góc cạnh khác nhau để từ đó phô lên được vẻ đẹp của quê hương trên nhiều góc độ. Mùa đông là vậy nhưng chẳng ai có thể ghét bỏ được mùa đông, bởi mùa đông là mùa để cho vạn vật có bước chuyển mình rực rỡ cho mùa xuân.
Khám phá văn mẫu❄️ Tả Mùa Đông ❄️Hay Nhất
Với yêu cầu “Viết văn biểu cảm về mùa đông ngắn gọn” thì chúng tôi đã chọn lọc được bài văn mẫu sau đây gửi tặng các bạn đọc tham khảo.
Mùa Đông là giai đoạn lạnh nhất trong năm, bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 1. Cảm giác rất lạnh ở khắp mọi nơi trong suốt mùa đông. Nhiệt độ khí quyển giảm xuống rất thấp, đặc biệt là trong những tháng mùa đông cao điểm.
Các vùng đồi núi được bao phủ bởi một lớp tuyết trắng dày và trông rất đẹp. Vào mùa này, các vùng đồi trông giống như một khung cảnh tuyệt vời. Do điều kiện thời tiết lạnh giá vào mùa đông nên người dân gặp rất nhiều khó khăn khi ra khỏi nhà.
Tại một số nơi trong nước, khí hậu vẫn ôn hòa với nhiệt độ bình thường và mang lại cảm giác rất dễ chịu. Tất cả mọi người đều mặc quần áo len dày trong suốt mùa đông để giữ ấm cơ thể cũng như an toàn khi nhiệt độ xuống thấp.
Chúng tôi thích uống một ngụm cà phê nóng, trà, súp, v.v. vào buổi sáng và buổi tối. Chúng tôi thường đi dã ngoại vào chủ nhật vào buổi chiều để tận hưởng chút nhiệt từ ánh nắng tự nhiên và tận hưởng cùng gia đình và bạn bè. Chúng tôi đi ngủ sớm vào ban đêm để sưởi ấm và an toàn khỏi mùa đông.
Bên cạnh đó, một số hoạt động thể thao và ngoài trời đã được thiết kế để tận dụng thời tiết và mang lại cho mọi người cơ hội rèn luyện sức khỏe và mang lại niềm vui cho bản thân như trượt băng, khúc côn cầu trên băng, câu cá trên băng, leo núi, chèo thuyền trên băng, v.v.
Vì thế, mùa đông tuy lạnh nhưng là mùa cho tôi cảm giác gần gũi và ấm áp nhất bên gia đình và người thân.
Các em học sinh có thể tham khảo bài văn mẫu biểu cảm về một mùa đông đơn giản nhưng đầy đủ ý chính sau đây.
Thường thì một năm có bốn mùa, đó là quy luật tự nhiên mà chắc chắn sẽ không ai có thể thay đổi được. Mỗi mùa đều có đặc điểm riêng biệt không giống nhau như: mùa xuân mát mẻ muôn hoa khoe sắc thắm. Mùa hè là mùa của những bông hoa phượng vĩ, bằng lăng mùa học sinh tạm biệt mái trường. Mùa thu dưới ánh trăng huyền ảo chúng em có thể rước đèn họp bạn.
Nhưng có lẽ mùa đông là đặc biệt nhất vì cái lạnh buốt, gió bấc và mưa phùn. Bây giờ đang là mùa đông và là ngày lạnh nhất trong năm. Nằm cuộn tròn trong chiếc chăn bông ấm áp mà em không muốn dậy vì lẽ trời quá lạnh. Từ trong phòng có thể nghe thấy tiếng gió rít từng cơn. Ra khỏi phòng sương mù dày đặc, bầu trời âm u.
Lác đác vài chiếc lá vàng đang rơi xuống cùng với những hạt mưa tinh nghịch. Cây cối khẳng khiu trơ trọi như đang cố gắng chống lại sức mạnh của thiên nhiên. Ngoài đường loáng thoáng vài bóng người trong những bộ quần áo bông ấm áp và khoác ngoài là chiếc áo mưa.
Hôm nay học sinh ở các trường cũng đã được nghỉ học. Cảnh ao hồ trầm mặc hơi nước bốc lên tạo cảm giác lạnh lẽo, nước buốt cắt da, cắt thịt. Giờ đây nơi duy nhất em nghĩ đến đó là nhà bếp, ánh lửa bập bùng gợi nên vẻ ấm áp. Lúc này cả nhà đang ngồi trò chuyện, còn mẹ đang tất bật chuẩn bị bữa sáng cho gia đình.
Đã quá trưa mà mặt trời vẫn không ló mặt. Đến sáu giờ tối thì ánh sáng nhường lại cho màn đêm yên tĩnh, chỉ có mùa đông mới có hiện tượng ngày ngắn đêm dài như vậy. Bầu trời lúc này âm u, ít sao và nhiều sương mù hơn ban sáng. Mưa phùn lất phấn tạt qua. Ánh đèn đã tắt hẳn bầu không khí trở nên tĩnh mịch hơn, chỉ còn tiếng chó sủa từ xa vang vọng lại.
Em rất thích mùa đông vì có thể ngồi bên ánh lửa bập bùng, được nhìn cảnh vật như khác lạ. Mọi người bảo mùa đông năm nay lạnh hơn mọi năm nhưng được sống trong ngôi nhà ấm áp tình yêu thương thì em có thể nói mùa đông không lạnh.
Đọc Thêm ⏩ Tả Mùa Thu Hay Nhất ❤️️ 15 Bài Văn Tả Cảnh Mùa Thu Điểm 10
Một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu và đông. Mỗi mùa đều mang một nét đẹp riêng. Và tôi cảm thấy thích mùa đông nhất.
Mùa đông về đem theo tiết trời lạnh giá. Tia nắng tinh nghịch ngày hè đã chạy đi đâu để lại trên bầu trời chỉ có một màu xám xịt. Đám mây trắng cũng chẳng còn vui vẻ, mà buồn bã trôi lững thững. Những cơn gió mùa đông bắc kéo về đem theo không khí lạnh. Ngoài đường, những cái cây trơ trụi, cành cây khẳng khiu trông thật thiếu sức sống. Những chiếc lá cây đã chuyển vàng rồi rụng hết từ cuối mùa thu. Nhưng mùa đông còn giúp cho những mầm non được ấp ủ. Chúng chờ đón xuân về để căng tràn sức sống.
Còn với con người, mùa đông dường như khiến chúng ta trở nên lười biếng hơn. Chẳng ai muốn ra khỏi chiếc chăn ấm áp. Đường phố trở nên vắng vẻ hơn, mọi người đều ngại ra ngoài đường trong thời tiết lạnh giá như vậy. Những người phải đi học, đi làm đều mặc quần áo ấm áp nhất có thể. Nhưng cũng chính vì điều đó, mùa đông khiến con người gần gũi nhau thêm.
Ban đêm, trời càng lạnh hơn. Trong xóm của em, nhà nào cũng đã sáng đèn từ khoảng sáu, bảy giờ rồi. Mọi người ai cũng muốn về nhà sớm để tránh khỏi cái rét mùa đông. Tiếng tiếng cười nói phát ra từ các căn nhà trong phố. Trong cái tiết trời giá lạnh này, tôi cảm thấy thật ấm áp khi được quây quần bên mâm cơm nóng cùng với bố mẹ. Cả gia đình cùng nhau ăn cơm, kể cho nhau những việc đã xảy ra trong một ngày. Mùa đông đem đến cho con người cảm giác ấm áp.
Có thể nói rằng mùa đông đối với mỗi người đều đem đến những cảm xúc riêng. Với riêng tôi, mùa đông trở nên ấm áp, hạnh phúc biết bao.
Tặng bạn 💔 Văn Tả Mùa Xuân Lớp 2 💔 15 Bài Văn Về Mùa Xuân Hay Nhất
Bài văn mẫu biểu cảm về mùa đông ấn tượng sau đây sẽ giúp cho các em có thể học hỏi được cách diễn đạt bài văn hấp dẫn và thu hút được nhiều người đọc.
Tôi vẫn dành một sự ưu ái cho mùa đông và những cảm xúc về mùa đông. Hôm nay là một ngày mùa đông gió lạnh… Lạnh đến mức tôi chỉ muốn ở yên trong phòng, trùm chăn co ro với đống sách vở hỗn độn của mùa thi.
Người ta bảo rằng mùa thu dành cho sự lãng mạn và bay bổng, mùa hè thì sôi động những niềm vui còn mùa xuân cho sức sống căng đầy, vậy mùa đông thì sao? Cô đơn và lạnh lẽo chăng? Không hẳn là yêu, nhưng tôi thích mùa đông – mùa của những cử chỉ yêu thương, mùa của những cảm xúc nhẹ nhàng và lãng mạn và mùa của những ký ức ngọt ngào, mến yêu khi tâm hồn ta xao động. Mùa đông để nhớ, để yêu thương và mùa đông để chờ đợi một cái gì đó quen thuộc mà mới mẻ.
Mùa đông, mùa để quan tâm, để yêu thương, và mùa cho cái lãng mạn được hồi sinh mạnh mẽ. Thử nghĩ cuộc sống thiếu lãng mạn, thiếu những cử chỉ quan tâm nhẹ nhàng, thiếu những lúc chúng ta sống chậm lại để cảm nhận cuộc sống, cảm nhận thiên nhiên và cảm nhận tình yêu thì đó có phải là sống không? Sống một cuộc sống nếu thiếu tình yêu thì có thật là sống không hay chỉ tồn tại mà thôi?
Liệu nó có như quy luật xuân – hạ – thu – đông không? Sao mùa đông lại trước mùa xuân? Tự nhiên luôn có cái lý của nó. Mùa đông, mùa của sự khắc nghiệt nhưng cũng là mùa của những ai biết cách yêu thương. Mà khi đã có thể sưởi ấm con tim nhau qua mùa đông ấy, hãy bình yên đón nhận tình yêu, vì đó chính là mùa xuân, mùa của sức sống căng tràn, mùa của yêu thương đích thực. Nhiều người bảo: Tình yêu bắt đầu từ ánh mắt, được nuôi dưỡng bởi nụ hôn và kết thúc bằng nước mắt. Nhưng với tôi, dù đã thực sự chứng kiến nhưng tôi vẫn muốn tin: tình yêu sẽ được bắt đầu từ những cử chỉ yêu thương nhẹ nhàng, được nuôi dưỡng bởi sự quan tâm và chỉ kết thúc khi người ta ngừng yêu thương nhau nữa!
Mùa đông là thế – lạnh lẽo thật, nhưng nó sẽ ấm áp nếu ta tìm cho mình một sự yêu thương nhỏ bé mà đủ sức nóng để sưởi ấm cả một con tim. Mùa đông gắn với bao kỷ niệm và yêu thương như cái cảm giác gió lạnh phả vào mặt từng cơn, từng cơn khiến đôi khi thấy cô đơn và lạnh lẽo. Và chính những lúc ấy, quá khứ lại hiện về. Ký ức về mùa đông ấy đôi khi vẫn hiện hữu, rõ nét và đầy đủ.
Đôi khi tôi vẫn còn cảm nhận được hơi thở của mùa đông ấy, mùa đông mà tôi từng rất yêu thương, mùa đông mà tôi thực sự cảm nhận được một chiếc khăn len có ý nghĩa thế nào. Một chiếc khăn là đủ để sưởi ấm cả một mùa đông, sưởi ấm một tâm hồn, một trái tim.. Nhưng giờ thì có lẽ nó đã trở nên lạnh, rất lạnh và có lẽ cũng vô nghĩa với tôi rồi… Tôi đang thử thay đổi, thử làm những gì mình không nghĩ là mình sẽ làm. Có người bảo, ừ thì cứ thử đi… mở rộng lòng hơn một chút.. .Biết đâu “mùa đông ấm áp sẽ về”… Thật sự cũng muốn.. Nhưng lại sợ. Sợ lại phải gặp mùa đông không mong đợi, không chào đón… Mà thôi cứ kệ. What will be will be…
Nếu ai hỏi tôi muốn nhận được gì vào mùa đông này, tôi sẽ nói đó vẫn là một chiếc khăn và thêm tách cafe nóng. Một chiếc khăn cho tôi sự ấm áp, một chiếc khăn có khi lại giúp tôi không còn sống trong hơi thở của quá khứ nữa. Còn tách cafe có lẽ sẽ giúp tôi tỉnh táo hơn, lý trí hơn..Để rồi tôi lại tiếp tục trên con đường của mình… Tôi yêu sự ấm áp trong cái gió lạnh của mùa đông.
Bài văn biểu cảm về mùa đông chọn lọc sau đây sẽ giúp các em có thể học hỏi được cách diễn đạt bài văn hấp dẫn và gây ấn tượng đối với người đọc.
Mùa đông là mùa cuối cùng của một năm. Đối với em, mùa đông đem đến thật nhiều cảm xúc tốt đẹp.
Mùa đông đã đến được một thời gian rồi. Bầu trời ngày đông cứ âm u, não nề. Tiết trời lạnh giá biết bao. Đôi lúc cũng có một vài cơn mưa nhẹ lất phất làm cho cảm giác càng rét buốt hơn. Cây cối giống như không còn sức sống.
Sáng nay, em thức dậy sớm để chuẩn bị đi học, nhìn xung quanh thật khác lạ. Từng dãy phố còn đóng cửa im lìm, mọi người vẫn còn đang say nồng trong giấc ngủ. Thời tiết giá lạnh con người cũng vắng so với ngày thường, chỉ những ai đi học hoặc đi làm mới phải dậy từ sớm. Ai nấy đều mặc nhiều lớp áo cùng trang bị giữ ấm như khăn choàng cổ, găng tay, mũ len… di chuyển hối hả để tránh cái lạnh giá của mùa đông. Các căn nhà trong ngõ vẫn đóng cửa im lìm. Dường như mùa đông đã làm cho mọi người trở nên lười biếng hơn.
Nhưng mùa đông cũng thật tuyệt vời khi giúp con người trở nên gắn kết hơn. Thời tiết lạnh giá, chúng ta đều mong trở về nhà. Trong căn nhà ấm áp, cả gia đình quây quần bên mâm cơm nóng hổi. Những chiếc giường ấm áp là nơi những đứa trẻ nằm nghe câu chuyện của mẹ, của bà. Phòng khách rộn ràng tiếng nói chuyện của ông, của bố. Hương trà thơm khiến con người thêm thư thái.
Khi mùa đông đến thì cũng có nghĩa là mùa xuân lại sắp trở về. Dù là mùa nào cũng đều những nét đẹp riêng khiến con người cảm thấy yêu thích. Em yêu biết bao mùa đông này.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Văn Tả Mùa Thu Lớp 2 🌟 15 Bài Văn Tả Về Mua Thu Hay Nhất
Với yêu cầu biểu cảm về mùa đông hay đặc sắc thì chúng tôi đã chuẩn bị sẵn cho các bạn học sinh bài văn mẫu về mùa đông sau đây.
Xuân qua, hạ tới, thu về rồi sang đông. Mùa đông là mùa của giá lạnh, của sự héo tàn. Nhưng chính cái lạnh lẽo đã khiến con người gần nhau hơn, quây quần bên lò sưởi ấm áp. Em rất thích mùa đông dù lạnh giá, khắc nghiệt.
Gió mùa tràn về cũng là lúc báo hiệu mùa đông đã đến, bầu trời ảm đạm không còn trong xanh và những đám mây lững lờ trôi biến mất thay vào đó là một màu xám xịt. Cái lạnh khắc nghiệt và đường phố cũng ít nhộn nhịp hơn thường lệ. Làn gió mang theo hơi khô lạnh làm thời tiết hanh hơn.
Cây bàng trước cửa nhà em đã trút toàn bộ lá, chỉ còn lại những cánh tay khẳng khiu vươn lên sống sót trong ngày đông lạnh lẽo. Mùa đông thời tiết giá lạnh, có mưa phùn gió bấc khiến cho mọi người phải đóng cửa hết và rất ít ra ngoài vì trời lạnh. Thi thoảng trên những phố vắng có vài người đang cặm cụi quét những đống lá khô rụng tả tơi sau một đêm gió rét.
Sáng sớm, không còn tiếng chim hót, tất cả vẫn chìm trong giấc ngủ dài, bác mặt trời uể oải vươn vai thức dậy cũng là lúc người ta ra đường đi làm. Mọi người ai cũng mặc những chiếc áo len, áo khoác dày, quàng khăn ,đội mũ để chống lại cái lạnh giá làm buốt cóng đôi bàn tay. Ngoài công viên chẳng còn bóng dáng những cụ già đi tập thể dục buổi sáng.
Mặt hồ phẳng lặng như gương không một gợn sóng buồn thiu vì thiếu vắng tiếng nói chuyện của người qua đường. Thành phố vào đông ảm đạm hơn nhiều, một ngày dài cứ thế trôi qua lặng lẽ, chỉ đợi đến thời điểm đó, ai nấy đều vội và trở về nhà, chạy trốn cái lạnh, trở về bên gia đình để tận hưởng sự ấm áp của lò sưởi hồng và làn khói nghi ngút tỏa ra từ bữa cơm tối.
Lão già mùa đông không chút ấm áp đến làm vạn vật chìm vào ảm đạm cướp đi không gian tươi mới như một quy luật vốn có của tạo hóa, khiến cho con người ta co ro vì cái rét. Nhưng chỉ khi đông về, rồi xuân mới đến thổi vào vạn vật một sức sống căng tràn.
Bài văn biểu cảm về mùa đông sinh động sẽ giúp các em có thể học hỏi được cách diễn đạt trôi chảy, súc tích nhưng vẫn giàu sắc thái biểu cảm.
Mùa đông đem đến cho mỗi người một cảm nhận riêng. Đối với riêng tôi, mùa đông đẹp bởi những cơn mưa.
Trước đây mưa mang theo những cánh phượng hồng, những lá bàng xanh và những kỉ niệm của một thời học trò đã qua – một thời mà cuộc thi chuyển cấp đã diễn ra rất sôi nổi, mang theo nhiều niềm vui và nỗi buồn của bao người, bao năm đèn sách.
Giờ đây trời đã chuyển đông. Đất trời không mang hơi ấm nữa. Ngay cả vào trưa vẫn còn cảm thấy cái se lạnh trong cái ánh chói chang của nắng. Hạ khác đông không chỉ là sự cách biệt về nhiệt độ, khác biệt về thời tiết, mà còn có sự riêng biệt về tâm trạng. Nếu hạ là sự háo hức, nhộn nhịp hè đến và pha lẫn một chút man mác buồn vì sắp sang thu, thì đông hoàn toàn là một sự tĩnh lặng âm thầm.
Nhưng có ai biết được đây chính là một khoảng thời gian để nuôi dưỡng biết bao hy vọng, mong chờ vào một việc gì đó, và biết đâu, một sức sống mới sẽ bật dậy lúc sang xuân thì sao – cầu vồng có xuất hiện sau cơn mưa chăng? Mưa mùa hạ chỉ làm dịu mát cái cảm giác nóng, có vẻ oi bức của ngày hè nhưng từ trong cái sâu thẳm của mùa đông lạnh giá.
Mùa đông, gió tràn về cùng với cái lạnh và đường phố cũng vắng vẻ hơn thường lệ. Buổi sáng, mặt trời lười biếng vẫn còn đang ngủ, không chịu dậy để ban phát những tia nắng ấm áp cho cỏ cây hoa lá. Mọi người đều mặc những chiếc áo len, áo khoác dày, quàng khăn, đội mũ sùm sụp để có thể làm giảm đi cái rét cắt da cắt thịt.
Hai hàng bàng ven đường đã trút bỏ bộ cánh già cỗi từ lâu, chỉ còn trơ lại những chiếc cành khẳng khiu nhẫn nại chịu đựng giá rét. Bên đường, hàng phở tấp nập người ra vào, cô bán hàng làm luôn tay, nào lấy bánh, nào chan nước… trông có vẻ rất vui vì bán hàng chạy, các bát phở nóng hổi bốc hơi nghi ngút chờ đợi mọi người thưởng thức. Ai ra về cũng đều rất hài lòng vì được phục vụ chu đáo. Dường như họ đã tạm quên đi cái lạnh giá của mùa đông.
Tôi rất thích mùa đông – cái mùa lạnh giá mà ấm áp. Mùa đông của tôi thật tuyệt vời biết bao nhiêu.
Tiếp theo, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Tả Cảnh Mùa Xuân Trên Quê Hương Em 🌹 15 Bài Hay
Khám phá cách miêu tả mùa đông đặc sắc thông qua bài văn mẫu biểu cảm về mùa đông đạt điểm cao mà chúng tôi chia sẻ sau đây.
Tạm biệt mùa thu ấm áp, trời đã chuyển sang mùa đông từ bao giờ em cũng không biết rõ chỉ cảm nhận được rằng gió mùa đông bắc thổi ngày một nhiều và cả xóm làng nơi em ở đều chìm vào trong sương mù vào những sáng sớm mùa đông.
Mùa đông – mùa của cái lạnh mà người ta có thể nói là cắt da cắt thịt, thậm chí ở nhiều nơi còn có tuyết, nước lạnh giá như đóng băng, cây cối thì không còn vẻ tươi trẻ, xanh tốt như mùa xuân và mùa hè nữa, tất cả đều cằn cỗi nghèo nàn. Cuộc sống sinh hoạt của mọi người trong xóm em nói riêng và của những người ở những vùng lạnh nói chung cũng có sự thay đổi khi thời tiết chuyển từ mùa này sang mùa kia.
Mùa đông thì mặt trời mọc muộn hơn so với mùa hè, vì vậy việc cảm nhận rằng trời đã sáng hay chưa cũng có sự thay đổi, vào mùa hè khoảng năm giờ sáng là ta đã có thể nhìn rõ được cảnh vật, nhưng còn mùa đông thì năm giờ trời vẫn còn tối như ban đêm, và buổi tối cũng vậy, trời sẽ nhanh tối hơn vào mùa đông. Ta thường nghe có câu: “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng mười chưa cười đã tối” là như vậy, tháng năm thuộc mùa hè và tháng mười thuộc mùa đông.
Xóm em ở là một xóm nhỏ dưới chân núi, vào những sáng sớm mùa đông một làn sương mù bao phủ lấy cả xóm, mọi người thức dậy muộn hơn, chúng em cũng vậy, vào mùa đông nhà trường sẽ lùi thời gian học lại muộn hơn nên chúng em cũng không phải dậy sớm, trời lạnh thì ai muốn chui ra khỏi cái chăn ấm cơ chứ, mọi người phải mặc quần áo thật ấm, thường thì nhà em có bếp củi và mọi người cùng ngồi quây quần để sưởi ấm, ai có công việc gì hay chúng em đi học thì phải chuẩn bị đầy đủ tất, găng tay,mũ len, quần áo ấm rồi mới ra đường.
Gió mùa đông bắc thổi đều đặn mang đến cảm giác tê tái da thịt. Mùa đông cũng có nắng nhưng những tia nắng rất yếu ớt, và đặc biệt hay có mưa phùn. Những cành cây trơ trọi lá, khẳng khiu, rau cỏ mùa này thường không mọc được vì lạnh quá. Mùa đông hay có những đợt rét đậm, rét hại. Em hay xem dự báo thời tiết và hay thấy những nơi nhiệt độ xuống thấp quá nên có tuyết, mặc dù lạnh nhưng nhìn thật đẹp.
Sau một ngày làm việc mọi người trở về nhà và quây quần bên mâm cơm thật ấm cúng. Mùa đông thật lạnh nhưng thiếu nó thì sao còn có thể gọi là bốn mùa, có nóng thì phải có lạnh. Xuân qua thì hè tới, thu tàn rồi đến đông cứ như thế bốn mùa tuần hoàn nhau tạo nên sự đa dạng của thời tiết.
Các em học sinh có thể tham khảo bài văn biểu cảm về mùa đông ngắn hay nhưng đầy đủ ý chính sau đây.
Mùa đông đem đến nhiều cảm nhận khác lạ cho con người, có người thích nhưng cũng có người không. Riêng bản thân tôi cảm thấy rất yêu thích mùa đông.
Đông về, bầu trời mờ ảo trong làn sương sớm, cảm giác như chỉ cần giơ tay lên là có thể chạm vào những đám mây. Không khí lạnh để lại làn hơi nước mỏng trên ô cửa kính. Cây cối mùa đông không xanh non mơn mởn như mùa xuân hay mùa hè mà chỉ trơ trụi những cành khô nhưng bên trong chúng lại là dòng nhựa sống mãnh liệt.
Mùa đông về mang theo những cơn gió bấc thật lạnh, nắng đông cũng không ấm áp như nắng xuân hay chói chang như mùa hạ mà chỉ là những tia nắng yếu ớt hiếm hoi. Thi thoảng lại xuất hiện cơn mưa phùn chẳng đủ làm ướt áo ai, cũng chẳng khiến ai vội vã tránh đi.
Đông về, đường phố ngập tràn màu sắc bởi những chiếc áo khoác của người đi đường. Ai cũng hối hả đi thật nhanh để sớm trở về nhà sau một ngày làm việc vất vả, để cùng gia đình quây quần ấm cúng bên nhau. Đông về, trời luôn tối rất nhanh, từng đợt gió lạnh khiến con người cũng lười biếng làm việc. Tôi rất thích được nằm trong chăn bông thật dày nghe mẹ kể chuyện cổ tích khi ngoài kia là gió bấc đang thổi mạnh. Bởi vậy mùa đông dù lạnh nhưng em vẫn rất thích và mong đợi mỗi năm.
Mùa đông thật tốt bụng và thân thiện. Chúng ta nên an ủi và sẻ chia với mùa đông. Bởi mùa đông đem đến cho con người nhiều thật điều tuyệt vời.
Gửi tặng bạn 💕 Tả Về Mùa Hè Hay Nhất 💕 15 Bài Văn Tả Mùa Hè Điểm 10
Mùa đông, bầu trời như thấp xuống. Mây ở đâu kéo về che kín cả khoảng trời xanh. Cả mùa đông, bầu trời toàn mây là mây.. Mây có màu xám tro. Cả bầu trời bao la một màu mây xám khiến cho vạn vật cũng nhuộm một màu xám xịt.. Lòng tự nhủ: thế là mùa đông đã về.
Mùa đông về gõ cửa, những cơn gió như tà áo thướt tha khẽ gieo mình vào khoảng không vô tận. Con phố nhỏ nằm im lìm, núp bóng dưới những cây bàng già cỗi…
Mùa đông có gió heo may, giá rét. Những cơn gió mùa đông bắc thổi về làm cho trời đất lại càng xám hơn. Cây trụi lá, những nhánh cây khẳng khiu trơ trọi giữa trời. Màu xanh dường như biến mất.. Màu xám lên ngôi. Nhìn đâu cũng thấy gam màu lạnh – gam màu chủ đạo của mùa đông. Nhưng, đâu đó,trên cánh đồng hoa cải vàng rực kia, lại lấp ló những vạt nắng mềm…như muốn từng chút, từng chút một, sưởi ấm mùa đông lạnh giá.
Có lẽ với một số người, họ chỉ nghĩ rằng mùa Đông là mùa tiếp nối của mùa Thu; là mùa “khó ưa” nhất trong bốn mùa. Tôi lại nghĩ khác. Mùa Đông – mùa của những bàn tay đan xen vào nhau khi cùng bước trên con phố vắng. Mùa Đông – mùa của từng cơn gió lạnh, thổi tung bay chiếc khăn choàng ấm áp và mái tóc dài của các cô gái.
Còn gì thú vị hơn khi thong thả dạo quanh các ngõ nhỏ, lắng nghe gió hát bài ca mùa Đông, và ngước đôi mắt lên, đếm từng chiếc lá vàng cuối cùng của mùa Thu còn sót lại? Còn gì vui hơn khi được cầm chiếc bánh nóng, cắn từng miếng thật nhẹ để cảm nhận vị nóng thấm vào từ đầu lưỡi, làm ấm đi cái bụng đang “biểu tình” giữa cơn gió buốt? Tôi yêu mùa Đông, bởi cảm giác lạnh lẽo và ấm áp xen lẫn nhau trong từng dòng cảm xúc mà chỉ Đông về mới có thể cảm nhận thật rõ rệt và sâu sắc.
Đôi khi tôi nghĩ Tạo hóa đã tạo ra mùa đông lạnh lẽo để con người biết trân trọng những khoảnh khắc gần nhau hơn.Để con người ta cảm thấy cần gần nhau hơn nữa. Mùa đông – mới là mùa của ấm áp và yêu thương.
Gợi ý 🥦Văn Tả Mùa Hè Lớp 2🥦15 bài văn mẫu
Cùng tham khảo những ý văn hay, độc đáo trong bài văn biểu cảm về mùa đông lớp 7 hay xuất sắc sau đây.
Nếu như mùa xuân là khúc dạo đầu trong bốn mùa, mở màn cho một năm thì mùa đông đánh dấu sự kết thúc cho vòng tuần hoàn ấy. Mùa đông cũng có những nét hấp dẫn riêng không thể trộn lẫn với bất kỳ mùa nào khác, để lại trong lòng người những ấn tượng và cảm xúc khó phai.
Khi những cơn gió bấc tràn về cũng là lúc mùa đông đang chuẩn bị gõ cửa từng ngôi nhà. Khác với những cơn gió heo may của mùa thu chỉ đem lại cảm giác hơi se lạnh, những cơn gió bấc làm cho ai cũng phải rùng mình vì cái rét cắt da cắt thịt. Bầu trời không còn trong xanh, nắng cũng dần tắt lịm. Trên nền trời chỉ còn lại một màu xám xịt không khỏi gợi cảm giác thê lương, ảm đạm.
Cây cối trong vườn đã trút hết lá, chỉ còn lại cành cây khẳng khiu như những cánh tay gầy guộc trông thật thương hại. Những chú chim không còn hót vang chào ngày mới vào mỗi buổi sớm mai, có lẽ chúng đã rủ nhau đi về phương Nam để tránh rét. Ông mặt trời ẩn sau những lớp mây dày, chìm vào giấc ngủ đông để đợi mùa xuân ấm áp.
Những cơn mưa phùn tuy không ồn ã như mưa rào mùa hạ nhưng lại làm cho cái lạnh càng buốt giá hơn, thấm sâu vào từng đường gân thớ thịt. Vào sáng sớm, sương mù giăng phủ làm cho thiên nhiên thêm mờ ảo, bức tranh ngày đông dường như chỉ có hai màu xám và trắng. Giữa khung cảnh huyền ảo ấy, con người và vạn vật như lẫn vào trong một chốn bồng lai tiên cảnh, ẩn hiện thấp thoáng sau màn sương mờ.
Vào mùa đông, mọi người cũng ít muốn ra ngoài hơn. Ngoài đường, ai nấy đều giữ ấm cho mình bằng những chiếc áo len, áo khoác dày sụ. Trong thời tiết giá lạnh, có lẽ chẳng còn gì thích hơn khi được ngồi bên bếp lửa hồng reo vui hay ủ mình trong chiếc chăn bông ấm áp.
Những cơn gió bấc đập vào cửa sổ, nghĩ đến những bác lao công vẫn phải thức khuya dậy sớm để giữ phố phường sạch đẹp, tôi thầm cảm ơn vì sự cần cù cùng đức hi sinh của họ. Giữa cái lạnh buốt đến thấu xương ấy, vẫn có những con người nhỏ bé, bôn ba, vất vả để mưu sinh cho cuộc sống hàng ngày. Mùa đông tuy có giá lạnh, nhưng chỉ cần tình yêu thương giữa người với người cũng đủ làm cho trái tim thêm ấm áp.
Tạo hóa sinh ra mùa đông có lẽ để làm cho người với người được gần nhau hơn. Mùa đông cũng không phải chỉ có bầu trời xám xịt, cái lạnh thấu xương, mùa đông sẽ trở nên ấm áp hơn nếu chúng ta biết truyền cho nhau hơi ấm giữa cuộc đời này.
Tặng bạn 📍Thẻ Mobi Miễn Phí📍 chưa cào mới nhất
Vẫn cơn mưa đó, vẫn hạt mưa kia, nhưng nay mưa không phải là một cơn mưa chợt đến và chợt đi mùa hạ, mà chính là một cơn mưa đúng nghĩa, mưa mang đến những xúc cảm lặng lẽ và âm thầm – tình cảm ấm áp trong cái lạnh mùa đông.
Trước đây mưa mang theo những cánh phượng hồng, những lá bàng xanh và những kỉ niệm của một thời học trò đã qua – một thời mà cuộc thi chuyển cấp đã diễn ra rất sôi nổi, mang theo nhiều niềm vui và nỗi buồn của bao người, bao năm đèn sách. Mùa hè nóng, và mưa mang theo hơi ẩm của đất trời, cả hai hòa quyện vào nhau tạo nên một chữ”hạ”nóng – ẩm – chỉ một chữ mang lại biết bao nhiêu là cảm hứng sáng tác thơ văn và nhạc phẩm đã đi vào lòng người bao thế hệ.
Giờ đây đã chuyển đông, đất trời không mang hơi ấm nữa, ngay cả vào trưa vẫn còn cảm thấy cái”se se lạnh”trong cái ánh chói chang của nắng. Người ta thường bảo rằng trong cơn mưa ta sẽ nhìn thấy chính bản thân qua từng giọt nước rơi, qua từng giọt nước mắt lăn dài trên má. Và qua đó có thể không ít người sẽ nghĩ rằng”mưa chẳng qua chỉ là biểu tượng của sự yếu đuối, hèn nhát mà qua mưa tất cả những nỗi buồn đau sẽ trôi theo dòng nước mắt, và sẽ không có ai biết rằng ta đang khóc”,”mưa xấu lắm”.
Nhưng khóc trong mưa hay lao đầu bước chân ra khi ngoài trời mưa đang xối xả thì đối với mỗi người đó là cách thể hiện tâm trạng của mình. Khóc ư? – một nhận định cũ rích vẫn còn tồn tại xưa nay: khóc là hèn nhát, yếu đuối và đó chỉ dành cho phải nữ thôi – không một ai có quyền nói được như thế, vì khóc không đơn giản chỉ là nhu cầu sinh lí của con người, nó không định nghĩa được và chỉ xuất phát từ con tim chân thành. Tâm trạng buồn nên lao đầu vào cơn mưa để tìm cho mình một khoảng không yên bình? Đó có phải là một kẻ điên cuồng vọng tưởng không?
Mưa không phải là sở hữu của riêng một ai cả, cũng không phải là của riêng một mùa nào cả – chỉ đơn giản là một sự xuất hiện khác biệt ở từng giai đoạn. Nếu như cuộc đời chúng là một năm, thì mưa sẽ là tâm trạng luôn dừng lại và lắng đọng ở từng khoảnh khắc, từng “mùa” trong “năm” – Luôn xuyên suốt qua từng thế hệ, có lúc nào mưa đã nghỉ ngơi? Mưa đẹp có người nào hay , mưa mang sức sống đến cho muôn loài.
Chiến thắng bản thân chính là ta đã vượt qua số phận khắc nghiệt và dễ dàng đứng lên trong mọi hoàn cảnh: biết bao con người vẫn tất bật ngày ngày vẫn làm việc trong buổi sớm mai sương còn đọng lại trên lá, vượt qua bao cơn gió buốt tê để chờ mong một hạnh phúc ấm áp phía trước cô lao công đường phố vẫn cần cù âm thầm quét dọn đường phố khi trời tối, chú công nhân bốc vác vẫn siêng năng khi bình minh chưa mở mắt, bác tài xế xe buýt ngày ngày vẫn bôn ba trên chiếc xe bất kể sáng sớm, những việc làm của họ vẫn diễn ra đều đặn thường xuyên trong trời đông, ấy thế mà họ có chịu khuất phục trước thiên nhiên đâu?
Thành thử ra chúng ta phải khâm phục và noi theo những tấm gương cao cả mà thầm lặng đó, vì chúng ta là học sinh – chủ nhân tương lai của đất nước – bao gian khó của thiên nhiên thời tiết sao cản chân ta tiến bước được.
Hạ khác đông không chỉ là sự cách biệt về nhiệt độ, khác biệt về thời tiết, mà còn có sự riêng biệt về tâm trạng. Nếu hạ là sự háo hức, nhộn nhịp hè đến và pha lẫn một chút man mác buồn vì sắp sang thu, thì đông hoàn toàn là một sự tĩnh lặng âm thầm, nhưng có ai biết được đây chính là một khoảng thời gian để nuôi dưỡng biết bao hi vọng, mong chờ vào một việc gì đó, và biết đâu, một sức sống mới sẽ bật dậy lúc sang xuân thì sao – cầu vồng có xuất hiện sau cơn mưa chăng?
Mưa mùa hạ chỉ làm dịu mát cái cảm giác nóng, có vẻ oi bức của ngày hè nhưng từ trong cái sâu thẳm của mùa đông lạnh giá, mưa thổi vào một sự ấm áp chứ không hẳn chỉ là bồi tụ thêm cho cái “thấu xương”của tiết trời hiện nay.
Tặng 🔰Thẻ Cào Viettel Miễn Phí🔰 dành cho người may mắn nhất
Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay
Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Những Mẫu Văn Cảm Nhận Đặc Sắc, Giàu Cảm Xúc Giúp Bạn Hiểu Hơn Về Tác Phẩm
Bài Thơ Bài Ca Ngất Ngưỡng nổi tiếng của tác giả Nguyễn Công Trứ được nhiều người biết đến
Tham khảo Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng Dàn Ý ngắn gọn và chi tiết nhất
Dàn ý chi tiết Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng
Mở bài
Giới thiệu sơ lược về tác giả:
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), là một người ham học từ nhỏ nhưng con đường thi cử không được hanh thông, mãi đến năm bốn mươi tuổi ông mới đỗ đạt và làm quan.
Giới thiệu sơ lược về Bài ca ngất ngưởng: Đây là bài thơ được tác giả viết sau năm 1848, năm ông cáo quan về hưu.
Thân bài
Ngất ngưởng trên hành trình hoạn lộ
Đề cao vai trò và ý thức trách nhiệm, bổn phận cá nhân “vũ trụ nội mạc phi phận sự”.
“Ông Hi Văn”: thái độ tự trào, tự tôn độc đáo.
Tự ý thức được ra làm quan là sẽ mất tự do (vào lồng) nhưng đây là phương tiện để ông thể hiện tài năng và hoài bão được cống hiến sức mình phục vụ nhân dân.
Nghệ thuật: điệp từ “khi” kết hợp với thủ pháp kiệt kê nhằm nêu khẳng định tài thao lược, văn chương của tác giả.
“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông”, “Lúc bình Tây”, “Phủ doãn Thừa Thiên” ⇒ sự thay đổi chức vụ liên tục, không chịu ở yên một vị trí nhất định.
⇒ Ngất ngưởng là lời tự khẳng định, sự đánh giá cao tài năng, nhân cách và phong cách tài tử, phóng túng.
Ngất ngưởng khi về hưu
Tự hào khi đã trả xong món nợ với nhân dân để về quê “giả tổ chi niên”.
Thái độ của Nguyễn Công Trứ khi về hưu:
Cưỡi bò vàng có đeo đạc rời khỏi kinh đô ⇒ ngạo nghễ, trêu ngươi, coi thường dư luận, đạt đến độ cao của phẩm cách và tài trí.
Từ một “tay kiếm cung” nay trở về với dáng dấp của một nhà tu hành “dạng từ bi”.
Tâm trạng từ sự thanh thản, nhẹ nhỏm thành sự ngậm ngùi.
Lối ống khi về hưu
Lên chùa cùng đào hát ⇒ khác người, khác đời.
Hưởng lạc: ca, tửu, cắc, tùng.
Coi thường được mất và sự khen chê của miệng đời.
⇒Thái độ thanh lạc, thỏa thích, phóng túng, tự do, coi nhẹ được mất, hơn thua ở đời.
⇒ Cuộc sống tự do, tự tại vượt lên mọi thói tục của một bậc phong lưu, không ngại khẳng định cá tính của mình.
Khẳng định cá tính của bản thân
Đặt mình ngang hàng với các bậc công thần, danh tướng Trung Hoa thời xưa ⇒ tự hào về sự nghiệp cống hiến cho đất nước.
Nghĩa vua – tôi ⇒ khẳng định tấm lòng trung quân, ái quốc, một lòng vì nước vì dân.
⇒ Tự hào, sảng khoái, tự tin thể hiện cái tôi cá nhân
Kết bài
Nội dung: Trên cơ sở ý thức về tài năng và nhân cách của bản thân, bài thơ còn là sự tổng kết về cuộc đời của chính tác giả.
Nghệ thuật:
Cách ngắt nhịp tạo tính nhạc cho tác phẩm, đồng thời thể hiện phong thái ung dung.
Sử dụng nhiều từ Hán Việt, điển cố thể hiện tài hoa, trí tuệ của tác giả.
Bài hát nói mang đậm chât thơ và bộc lộ tính cách phóng khoáng, tự do, bản lĩnh.
🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng 🌻 Tham khảo Phân Tích Bài Thơ Đất Nước
Nguyễn Công Trứ được mệnh danh là nhà thơ ngất ngưởng của Việt Nam với những phong cách rất riêng biệt, nó tạo nên một tính ngông trong phong cách sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật của ông, đặc biệt chúng ta bắt gặp phong cách đó trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởng.
Trong bài thơ tác giả đã thể hiện đúng thái độ tâm trạng và phong cách của chính mình, với những cách xưng hô mang một cái nhìn đầy chất ngông, vũ trụ ở đây đã chỉ một không gian vô cùng rộng lớn và mênh mông.
Nhưng lại dường như không có một chút phận sự nào, ở đây tác giả dường như đang chê trách những đấng nam nhi trong đất nước, tác giả mở đầu cũng để thể hiện một nỗi lòng muốn thể hiện quan niệm về vai trò và trách nhiệm của mình đối với đất nước.
Đó là những việc làm cần thiết và vô cùng xứng đáng đối với những đấng nam nhi được sinh ra trong đất nước:
Nhà thơ với một quan niệm vô cùng ngông nghênh, nó thể hiện luôn phong cách của ông, ông là một người thích tự do, chính vì vậy ông cho rằng làm quan là một việc trói buộc chính vì vậy, ông luôn luôn cương quyết thích sống một cuộc sống tự do, tự tại, không muốn điều gì cản trở sự tự do của chính bản thân mình.
Tất cả những điều mà ông thể hiện trong tác phẩm đó đều thể hiện tính cách của ông khi làm quan, tính cách của ông không chỉ thể hiện qua các tác phẩm nghệ thuật, mà nó còn được thể hiện trong lúc ông là quan, ông liệt kê các chức tước trong triều đình như thủ khoa, tham tán, tổng đốc
Và đây không chỉ là điều để ông thể hiện được tài năng của chính bản thân mình, mà còn cho người đọc biết được con người của ông:
Khi tuổi trẻ luôn phấn đấu để trở thành một vị quan, và ông cũng luôn thể hiện sự ngất ngưỡng trong con đường làm quan của mình.
Nhưng ông còn thể hiện sự ngất ngưởng đó qua cả thái độ của mình khi về quê, ông từ bỏ cuộc sống chốn quan trường và từ quan ở ẩn, ông không những đã thoát khỏi cái lồng đã chôn chân ở đó, mà ông luôn mong ước mình sống một cuộc sống tự tại, tự do, đó là những điều mà ông luôn luôn mong muốn để đạt được,
Những điều đó nó thể hiện ngay trong thái độ và cảm quan của ông trong khi sáng tác nên chính tác phẩm này, giá trị của nó không chỉ để lại cho con người nhiều cái nhìn mới mẻ mà nó còn để cho người đọc thấy được thái độ ngông cuồng và tự tại của ông:
Từ khi ông trút bỏ áo quan để về nhà ở ẩn, ông đã thể hiện một thái độ khác người, phong cách của ông không giống ai, ông bình dân mà thể hiện một con người vô cùng bình dị và thể hiện một thái độ vô cùng gần gũi với tất cả mọi người.
Ông đã dùng những hình ảnh rất đỗi gần gũi, đó là một cuộc sống tự tại và cũng được hưởng lạc từ thiên nhiên, ông trở về sống bên cạnh những núi sông, mây trắng.
Thái độ của ông khiến cho người đọc có một cái nhìn lạ, bởi nó khác thường so với những người khác, nhưng chính điều đó lại làm nên cuộc đời của ông khác lạ và mang lại cho ông một phong cách riêng, nó đặc trưng cho cá nhân và con người của ông.
Ông không quan tâm đến những lời khen chê của người khác đối với ông đó đều là những chuyện nhỏ mà ông không quan tâm tới, ông say mê trong những cuộc chơi lạ kì và những vui thú của hát nói, có rượu ngon, có ca nhạc…
ông không thích bó buộc, mà ông đang sống một cuộc sống hòa nhập với thiên nhiên, đó là một điều có ý nghĩa vô cùng tốt đẹp, nó đem đến cho ông một cái nhìn đầy thiện cảm với cuộc sống của mình.
Tiếp theo đó là những lời mà ông tự cho rằng đó là cả cuộc đời của mình tuổi trẻ đã làm quan, ông không còn vướng bận điều gì, khi đã làm tròn trách nhiệm của mình với dân với nước, đó là những điều mà ông luôn trăn trở nhưng nay ông đã làm được và ông không còn điều gì phải hổ thẹn nữa:
Trong triều đình ông là duy nhất, và không ai có một thái độ ngất ngưởng như ông.
Đó là những điều mà ông đã nói đến trong tác phẩm của mình, thái độ đó đã mang lại cho người đọc cái nhìn bao quát nhất, về con người cũng như toàn bộ cuộc sống của ông.
Ông đã phải sống trọn tình nghĩa và giờ ông đang muốn hưởng một cuộc sống tự do và thoải mái nhất.
Tham khảo những bài Cảm Nhận 6 Câu Đầu Bài Ca Ngất Ngưỡng được tổng hợp từ SCR.VN
Nguyễn Công Trứ là một trong những tác giả tiêu biểu trong văn học trung đại, ông cũng là một nhà Nho chân chính. “Bài ca ngất ngưởng” là một trong những tác phẩm thể hiện rõ con người ông.
Trong đó phải kể đến quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan của tác giả thể hiện trong 6 câu thơ đầu.
Ngay từ tên đầu bài thơ, hai chữ “ngất ngưởng” đã khiến cho ta cảm nhận được những điều khác lạ của tác giả. ít có một tác giả nào vào thời đại ấy lại đặt hai chữ “ngất ngưởng” vào ngay cái đề bài thơ. Đó hẳn cũng là một điều ngất ngưởng.
Không có việc gì trong nhân gian này, trong vũ trụ này không phải việc của ông. Việc nào cũng là việc của ông.
Đó không phải sự kiêu ngạo, sự tự cao mà chính là sự đánh giá đúng nhất về bản thân mình, về sự nghiệp của mình. Không một chút tự ti, ông đã đứng lên chỉ rõ vai trò to lớn của mình, chẳng phải ông đã nói rằng:
Nhưng cũng chính vì cái phận sự đó, phải có cái danh với đời, với người đó lẽ ra ông phải sung sướng khi được ra làm quan, làm người cai quản, trông coi cuộc sống cùa nhân dân, nhưng không ông coi như khi đó ông đã “vào lồng”.
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Tại sao được làm công việc mình mong muốn, ao ước mà ông coi như sự đè nén, gò bó. “Cái lồng” ở đây chính là cái bộ máy, cái xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
Cái xã hội mà việc đổi trắng thay đen, sự ganh ghét, đố kỵ xảy ra như cơm bữa. Khi bước chân vào chốn quan trường cũng là lúc Nguyễn Công Trứ biết rằng ông sẽ bị chi phối, sẽ phải làm những việc mà bản thân không muốn.
Tuy nhiên trong câu thơ này, Nguyễn Công Trứ vẫn thể hiện được cái “ngất ngưởng” của mình. Ông đã dám gọi chốn quan trường, xã hội lúc bấy giờ là cái lồng.
Đó gần như một cái tát vào mặt bộ mấy quan lại, triều đình vì trước nay có ai dám ngông cuồng như vậy. Trong xã hội phong kiến cũng không ít những nhà nho tiến bộ, những người có ý tưởng phản kháng lại chế độ.
Nhưng cũng chẳng mấy ai dám khẳng định lại điều đó trước toàn thể mọi người mà nhất là trên giấy trắng mực đen như Nguyễn Công Trứ. Đó phải chăng chính là sự phá cách của Nguyễn Công Trứ.
Nguyễn Công Trứ có được sự “chơi ngông” đó cũng bởi một phần ông biết là ông có tài, điều đó chẳng cần giấu giếm:
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Một lần nữa Nguyễn Công Trứ “ngất ngưởng”, lần này ông “ngất ngưởng” vì hãnh diện về cái tài của ông.
Nguyễn Công Trứ đã thể hiện được rất rõ cái tôi của mình trong câu thơ này. Nhưng cũng chính vì có tài, lại mang những tư tưởng tiến bộ nên Nguyễn Công Trứ đã không ít lần phải “lên voi, xuống chó”:
Đó cũng là điều dễ hiểu trong chốn quan trường đầy ghen ghét đố kỵ, mưu hại lẫn nhau. Nguyễn Công Trứ tỏ ra rất thản nhiên đón nhận điều đó. Điệp từ “khi… khi” tuy dồn dập nhưng lại mang hơi thở bình thản, đón nhận một cách tự nhiên, vì vậy mà ông cũng đã nói:
Với Nguyễn Công Trứ, sự nghiệp là quan trọng nhưng ông cũng không quá coi trọng danh lợi. Với ông dù làm ở vị trí nào miễn là được đem sức giúp đời, giúp dân là ông đã thỏa được cái chí làm trai.
Đó cũng chính là sự khác biệt của ông với quan lại bấy giờ và thể hiện được sự “ngất ngưởng” của ông.
“Bài ca ngất ngưởng” như một câu chuyện kể về cuộc đời của tác giả Nguyễn Công Trứ.
Nhưng qua đó ta lại thấy hiện lên hình ảnh một con người, với chí làm trai cao cả, một cái tôi sánh ngang với trời đất, một sự “ngất ngưởng” không hề gây khinh ghét mà là cả một sự đáng kính nể, khâm phục.
🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng 🌻 Chia sẻ Cảm Nhận Về Bài Thơ Đồng Chí
Cảm Nhận Cái Tôi Trong Bài Ca Ngất Ngưỡng hay và đặc sắc được mọi người yêu thích
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) biệt hiệu là Hi Văn, một danh tướng triều Nguyễn, văn võ toàn tài. Về sự nghiệp văn chương, ông để lại khoảng 150 bài thơ, câu đối, bài “Hàn nho phong vị phú” là một kiệt tác.
Với những bài thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ có giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng: “Chí nam nhi”, “Chí khí anh hùng”, “Nợ tang bồng”… trong đó, độc đáo nhất là “Bài ca ngất ngưởng”.
Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” thật đặc sắc và rất thú vị. Đó là vẻ đẹp của một nhà nho giàu cá tính, dám đem tài năng thi thố với đời, dám hành động cho thoả chí nam nhi, đồng thời cũng dám hành lạc biểu lộ bản ngã của một khách tài tử.
Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” còn là chất thơ, chất nhạc in đậm dấu ấn của một tao nhân mặc khách, một tài tử mang cốt cách anh hùng.
Thơ trung đại vốn phi ngã, nhưng “Bài ca ngất ngưởng” đã thể hiện cái tôi một cách đàng hoàng với tất cả niềm tự hào hiếm thấy.
Một cách xưng danh thật hào hùng. Trong xã hội phong kiến đã mấy ai dám nói như Nguyễn Công Trứ?
Kẻ nam nhi dám đem “tài bộ” ra thi thố với thiên hạ, làm tròn trách nhiệm với đời. Phải ngất ngưởng, phải sống khác người, vì đã có công danh, về cử nghiệp đã đỗ thủ khoa. Về binh nghiệp đã làm Tham tán, về hoạn lộ đã làm Tổng đốc Đông.
Có tài thao lược mới có thể ngất ngưởng, mới dám sống ngất ngưởng:
Có thể hiểu ngất ngưởng vì hơn đời, hơn người, do có “tài bộ”. Con đường công danh như được trải dài và mở rộng. Ông Hi Văn đang sống lại những tháng ngày oanh liệt:
Chữ “khi” được điệp lại bốn lần, đan xen với chữ “lúc”, đã nêu bật tính thời gian và con đường công danh của một kẻ sĩ anh hùng được mở ra với bao tự hào, kiêu hãnh.
Thật ung dung và thảnh thơi giữa chốn lâm tuyền. Như có một sự hoá thân kì lạ:
Nhìn thấy “dạng từ bi” đó của ông Hi Văn, làm sao Bụt chẳng “nực cười” được? Mọi chuyện được mất, khen chê bỏ hết ngoài tai, “ông ngất ngưởng” chính là một khách tài tử, rất thanh cao.
Các điệp ngữ (khi, không) làm cho nhịp thơ, điệu thơ, giọng thơ như nhún nhảy. Cũng là một nét đẹp của ông Hi Văn, cũng là một nét đẹp của “Bài ca ngất ngưởng”:
Bức chân dung tự hoạ của “ông ngất ngưởng” đã hoàn chỉnh, vừa bề thế, vừa trang trọng. Sự thuỷ chung về “nghĩa vua tôi” là cái thần của bức chân dung tự hoạ ấy. Sao không tự hào được?
Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” đâu chỉ có thế. Còn là vẻ đẹp văn chương, vẻ đẹp của một bài thơ hát nói dôi khổ (hai khổ thơ).
Ngôn từ thật biến hoá: khi là “tay ngất ngưởng” rồi lại “đeo ngất ngưởng lúc trở thành “ông ngất ngưởng” rồi còn cất tiếng hỏi: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”.
Nguyễn Công Trứ đã trải qua nhiều thăng trầm trên con đường hoạn lộ, nhưng lúc nào ông cũng thể hiện một bản lĩnh đáng trọng và tự hào: “Lúc làm đại tướng, ta không thấy thế làm vinh; lúc làm lính thú, ta cũng không lấy thế làm nhục”.
Nói về vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” là nói về vẻ đẹp của chí anh hùng, chí nam nhi là nói về vẻ đẹp ung dung thanh cao của một tao nhân mặc khách đã để lại nhiều bài thơ hát nói nổi tiếng. Ngất ngưởng sao mà đẹp vậy!
🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng 🌻 Chia sẻ Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn Hay
Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng Ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa thông tin về sản phẩm
Thơ là con người, là cuộc đời và còn là thơ nữa. Có rất nhiều những bài thơ câu hát mang vẻ đẹp tâm hồn của người sinh ra nó. Bởi vậy mới nói mỗi tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của các nhà thơ nhà văn.
Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đã thể hiện được vẻ đẹp của ông “Hi Văn” với lối sống khác người khác đời nhưng một lòng trung hiếu đem hết tài năng mình có giúp vua giúp nước.
Có lẽ vẻ đẹp bài thơ nằm ở từ “ngất ngưởng”. Từ này mang lại cho chúng ta cảm giác chông chênh, dễ ngã nhưng cũng rất thú vị. Mở đầu bài thơ, tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng toàn chữ Hán Việt.
Điều này mang lại cảm giác trang trọng khi nói về trách nhiệm của người nam nhi đối với nước, với dân:
Đều đó chúng tỏ nhà thơ ý thức sâu sắc vai trò, trách nhiệm của mình đối với cuộc đời. Tự xếp mình vào hạng những người: “Đã sinh ra ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”, nhà thơ tự xưng tên “ông Hi Văn” đã “vào lồng”.
Nhà thơ với một quan niệm vô cùng ngông nghênh, nó thể hiện luôn phong cách của ông, ông là một người thích tự do.
Chính vì vậy ông cho rằng làm quan là một việc trói buộc, ông luôn luôn cương quyết thích sống một cuộc sống tự do, tự tại, không muốn điều gì cản trở sự tự do của chính bản thân mình.
Tất cả những điều mà ông thể hiện trong tác phẩm đó đều thể hiện tính cách của ông khi làm quan. Tính cách của ông không chỉ thể hiện qua các tác phẩm nghệ thuật, mà nó còn được thể hiện trong lúc ông là quan.
Ông liệt kê các chức tước trong triều đình như thủ khoa, tham tán, tổng đốc… đây đều là những vị trí mà họ đã phải cố gắng để có được.
Vì vậy, về địa vị họ đã hơn rất nhiều người, đây là điều mà tác giả thể hiện sự ngất ngưởng của mình không chỉ riêng trong cuộc sống, mà trong rất nhiều việc khác
. Ông cũng luôn thể hiện một thái độ tích cực và mang lại cho người đọc nhiều suy ngẫm và có nhiều ý nghĩa to lớn, ông đã thể hiện sự ngất ngưởng của mình qua địa vị.
Và đây không chỉ là điều để ông thể hiện được tài năng của chính bản thân mình, mà còn cho người đọc biết được con người của ông:
Khi tuổi trẻ luôn phấn đấu để trở thành một vị quan, và ông cũng luôn thể hiện sự ngất ngưởng trong con đường làm quan của mình.
Ông còn thể hiện sự ngất ngưởng đó qua cả thái độ của mình khi về quê, ông không những đã thoát khỏi cái lồng đã chôn chân ở đó, mà ông luôn mong ước mình sống một cuộc sống tự tại, tự do, đó là những điều mà ông luôn luôn mong muốn để đạt được.
Những điều đó thể hiện ngay trong thái độ và cảm quan của ông trong khi sáng tác nên chính tác phẩm này. Nó không chỉ để lại cho con người nhiều cái nhìn mới mẻ mà nó còn để cho người đọc thấy được thái độ ngông và phong thái ung dung tự tại của ông:
Từ khi ông trút bỏ áo quan để về nhà ở ẩn, ông đã thể hiện một thái độ khác người, phong cách của ông không giống ai.
Thái độ của ông khiến cho người đọc có một cái nhìn lạ, bởi nó khác thường so với những người khác, nhưng chính điều đó lại làm nên cuộc đời của ông, mang lại cho ông một phong cách riêng đặc trưng cho cá nhân và con người của ông.
Ông không quan tâm đến những lời khen chê của người khác đối với ông, đó đều là những chuyện nhỏ mà ông không quan tâm tới. Ông say mê trong những cuộc chơi lạ kì và những vui thú của hát nói, có rượu ngon, có ca nhạc…
Một cuộc sống đúng chất của an nhàn và hạnh phúc mỹ mãn, đây mới chính là cuộc sống tự do mà ông luôn mong muốn hướng tới.
Tiếp theo đó là những lời mà ông tự cho rằng đó là cả cuộc đời của mình tuổi trẻ đã làm quan, ông không còn vướng bận điều gì, khi đã làm tròn trách nhiệm của mình với dân với nước, đó là những điều mà ông luôn trăn trở nhưng nay ông đã làm được và ông không còn điều gì phải hổ thẹn nữa:
Trong triều đình ông là duy nhất, và không ai có một thái độ ngất ngưởng như ông, đó là những điều mà ông đã nói đến trong tác phẩm của mình.
Thái độ đó đã mang lại cho người đọc cái nhìn bao quát nhất về con người cũng như toàn bộ cuộc sống của ông. Ông đã sống trọn tình nghĩa và giờ ông đang muốn hưởng một cuộc sống tự do và thoải mái nhất.
Bài ca ngất ngưởng không đơn thuần chỉ một tác phẩm văn học mà nó còn là linh hồn, phẩm chất của chính Nguyễn Công Trứ gửi gắm trong đó.
Tác phẩm đã thể hiện mạnh mẽ được thái độ cũng như phong cách của ông – ngất ngưỡng và vô cùng riêng biệt.
🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng 🌻 Tham khảo Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí Chuẩn Nhất
Những Văn Mẫu Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng tác giả Nguyễn Công Trứ hay
Bài ca ngất ngưởng được Nguyễn Công Trứ viết vào năm 1848, năm ông cáo quan vể hưu sống ở quê nhà với cuộc sống phóng khoáng, tự do, nhàn tản.
Mở đầu bài thơ là câu chữ Hán thể hiện lí tưởng cua nhà nho: trong vũ trụ việc gì cũng là phận sự của kẻ sĩ. Do đó, ông Hi Văn coi những việc gánh vác trong vũ trụ là bổn phận của mình.
Tác giả tự xưng là ông và bước vào chốn quan trường, ông gọi đó là vào lồng, xem đó như là một sự trói buộc, mất tự do.
Điều đó thể hiện tính cách độc đáo của ông bởi sự suy nghĩ đó không giống ai trong xã hội khi mà con người luôn khao khát được đi trên con đường công danh. Tính cách đó góp phần tạo nên sự ngất ngưởng cho Nguyễn Công Trứ.
Sự thăng trầm trong cuộc đời của Nguyễn Công Trứ đã góp phần tạo nên một tay ngất ngưởng. Người ta thường nói tay cung kiếm, tay ăn nói, tay cự phách, giờ đây, Nguyễn Công Trứ bổ sung thêm tay ngất ngưởng trên hoạn lộ.
Lối sống của ông cũng thể hiện một sự ngất ngưởng: Năm cởi mũ áo về hưu, ông lại đeo đạc ngựa cho bò vàng, thêm một việc làm ngất ngưởng, bởi trái khoáy với thói thường.
Nguyễn Công Trứ từng là vị tướng mà nay lại đi chùa, mang theo cả cô đầu, vừa trái khoáy lại vừa chướng, đến bụt cũng phải cười khì.
Và trong quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện một sự cứng cỏi, một bản lĩnh hơn người: được mất vẫn vui như Tái ông mất ngựa, dù được lời khen hay tiếng chê vẫn coi như gió thổi ngoài tai. Cứ hành lạc cho thỏa chí riêng mình.
Ông không hề giống bất cứ ai: không Phật, không Tiên, không vướng tục. Tuy vậy, ông vẫn làm tròn đạo nghĩa vua tôi, làm tròn trách nhiệm của một đấng nam nhi đối với non sông, đối với nhân dân.
Điều này dễ mấy ai trong xã hội có thể thu xếp vẹn toàn.Do đó, niềm tự hào của Nguyễn Công Trứ là một niềm tự hào chính đáng.
Quan niệm sống ngất ngiỉởng của Nguyễn Công Trứ khác hẳn với những quan niệm thông thường thời dó. Có thể xem là một triết lí mới của thời đại lúc bấy giờ.
Những nét cơ bản về tính cách của một con người tài tử có phầm chất và bản lĩnh nơi Nguyễn Công Trứ được thể hiện đậm nét bởi việc không chịu đi theo con đường sáo mòn của tư tưởng phong kiến
Bài thơ được sáng tác theo thể ca trù, có những câu thơ 8 tiếng, 10 tiếng và lối ngắt nhịp khá phong phú, tự do, gợi lên cái phóng khoáng của một Trang Chu gõ chậu hát chơi coi đời vô vị, được mất là chuyện chẳng cần băn khoăn.
Chính những lời lẽ đùa cợt suồng sã rất phù hợp với cái tôi phóng túng và đầy ngất ngưởng của nhà thơ rất giàu cá tính này.
Nói đến những nhà thơ nửa đầu thế kỷ XIX không thể không nhắc đến nhà thơ – ông quan thị lang triều Nguyễn: Nguyễn Công Trứ. Đây là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, một phần nhân vật hăm hở lập công, hết sức đề cao chí làm trai và cách sống rất độc đáo, luôn tự do, phóng túng.
Nguyễn Công Trứ được coi là một trong những thi sĩ nổi tiếng nhất đương thời, ông có công lớn trong việc nâng thể hát nói thành thể thi ca có khả năng biểu hiện những tình cảm phong phú và tinh tế.
Trong số những bài thơ của Nguyễn Công Trứ sáng tác theo thể hát nói, nức danh hơn cả là bài thơ Bài ca ngất ngưởng.
Đây là một tác phẩm được sáng tác sau khi tác giả rời bỏ chốn quan trường về quê nhà sống cuộc đời ẩn dật. Đây cũng là lúc chất ngạo nghễ, ngất ngưởng vốn có của cụ Thượng Trứ được bộc lộ một cách đầy đủ nhất.
Bằng Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ đã trình bày một cách thật sinh động, độc đáo bản sơ yếu lí lịch của mình và bao trùm bài thơ, người đọc có thể cảm nhận một lối sống khác người, khác đời của tác giả.
Lối sống của ông đối lập với lối sống của tập đoàn, đối lập với những quan niệm chính thống lúc bấy giờ.
Trước hết, ngay tiêu đề của bài thơ đã khiến người đọc phải chú ý, phải suy nghĩ.
Cái độc đáo của Nguyễn Công Trứ phải chăng được thể hiện ngay trong cách ông đặt tiêu đề của bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Theo cách hiểu thông dụng, ngất ngưởng chỉ thế cao mà không vững, dễ đổ vỡ.
Nguyễn Công Trứ thường nói đến chí nam nhi theo tinh thần nho giáo. Trong bài Chí làm trai, nhà thơ khẳng định:
Ở Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ cũng mở đầu bằng một câu chữ Hán có tính chất tuyên ngôn thể hiện cái chí làm trai nói trên: mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không là phận sự của ta:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Cái hay của câu thơ mở đầu chính là triết lí sống đúng đắn và tình cảm chân thành của tác giả. Muốn xã hội tiến bộ, mỗi con người phải tự khẳng định mình, phải cố gắng cao nhất làm được một việc gì đó có ích cho đời để có thể tự hào với mọi người.
Khát vọng đó, quyết tâm đó là chính đáng, là rất đáng trân trọng; nhất là một khi nó được thể hiện một cách trực tiếp với một thái độ chan thành của nhà thơ.
Nhưng quả thật chưa ai xưng danh rồi sau đó lại dám khẳng định luôn mình là người có tài năng như Nguyễn Công Trứ. Có điều, câu thơ tác giả nói về mình nhưng tựa như nói về người khác, nói một cách tự nhiên, hồn nhiên.
Đoạn thơ trên bộc lộ sự tự khẳng định niềm tự hào về tài năng văn võ song toàn của mình. Tuy vậy, cái hay của đoạn thơ trên trước hết xuất phát từ thái độ chân thành, hồn nhiên và sự trung thực của tác giả.
Đối với những nhà giàu sang quyền quí khi xưa, ngựa là phương tiện giao thông chủ yếu. Đi ngựa là thể hiện sự sang trọng và quyền lực.
Nhưng cụ Thượng Trứ lại khác đời: cụ không đi ngựa mà lại đi xe do con bò cái lông vàng kéo, rong chơi khắp chốn. Đã thế, trước cửa xe, cụ để bôn câu thơ trên một tấm mo cau:
Vậy, vì sao Nguyễn Công Trứ sống giữa chốn danh lợi bon chen như thế mà vẫn bình thản, thoát khỏi lẽ thường ở đời, nhất là đối với một quan lại triều đình trong chốn hoan lộ vốn bất bằng?
Có lẽ vì một lẽ đơn giản ngay trong tiềm thức, trong ý thức sâu xa của mình, ông đã không quan tâm đến cái được, cái mất ở đời. Tuy thế, lúc nào ông cũng bình thản như ngọn gió xuân, mặc cho thiên hạ khen hay chê:
Và nguyên nhân cốt lõi của thái độ sống này, của cái ngất ngưởng này chính là sự ý thức đầy đủ về cái tôi cá nhân, cá thể của mình, cũng như ý thức về tài năng và phẩm hạnh cùa mình.
Câu kết bài thơ, Nguyễn Công Trứ nhấn mạnh thêm một lần nữa cảm hứng ngất ngưởng bằng câu: Trong triều ai ngất ngưởng như ông? Câu nghi vấn nhưng lại chính là câu khẳng định: trên đời này không ai độc đáo, ngạo nghễ, ngất ngưởng bằng thi sĩ Nguyễn Công Trứ.
Đặt trong chế độ phong kiến, Bài ca ngất ngưởng có ý nghĩa về nhiều phương diện. Nó ít nhiều báo hiệu sự thức tỉnh của ý thức cá nhân, cá thể trong hoàn cảnh cái tôi không được thừa nhận. Nó ghi nhận một bước tiến đáng kể trong lịch sử dân tộc theo hướng dân chủ hóa.
Ngày nay, lối sống và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ có thể cần được tiếp thu một cách cân nhắc.
Tuy nhiên, bài thơ Bài ca ngất ngưởng vẫn có ý nghĩa, trước hết trong việc khích lệ người đọc hãy sống mạnh mẽ, hãy sống có ích để cuộc đời mình ngày một có ý nghĩa, không chấp nhận một cuộc sống tẻ nhật, vô nghĩa.
🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng 🌻 Chia sẻ Cảm Nhận Về Bài Thơ Câu Cá Mùa Thu Ấn Tượng
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong nửa đầu thế kỉ XIX. Văn chương lỗi lạc, có tài kinh bang tế thế, lưu danh sử sách.
Lúc sống cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm lính thú, lúc làm đại quan. Vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở chí nam nhi, sòng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát vọng phi thường:
Nguyễn Công Trứ về trí sĩ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với triểu Nguyễn. Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” được ông viết sau khi đã về trí sĩ tại quê nhà.
“Ngất ngưởng” nghĩa là không vững, ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Trong bài thơ này nên hiểu “ngất ngưởng” là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người.
Và ngất ngưởng đã được Nguyễn Công Trứ nâng lên thành bài ca, thành điệu tâm hồn với tất cả niềm tự hào và sự say sưa hiếm thấy.
Khổ đầu cất cao một tiếng nói, một lời tuyên ngôn của đấng nam nhi, đấng tài trai. Rất trang trọng và hào hùng: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” — mọi việc trong vũ trụ chằng có việc nào không là phận sự của ta.
Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế mình, “tài bộ” mình, chí nam nhi của mình mang tầm vốc vũ trụ.
Bốn câu tiếp theo (khổ giữa), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xông pha trận mạc, giữ trọng trách trước ba quân: “Bình Tây cờ Đại tướng”.
Thời bình thì giúp nước giúp vua, làm “Phủ doãn Thừa Thiên”. Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã lên tới đỉnh cao nhất danh vọng. Ông đã từng nói: “Lúc làm Đại tướng, ta chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục”.
Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ vể trí sĩ ở quê nhà, năm đó, ông vừa tròn 70 tuổi (1848):
Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào “ngựa ngựa xe xe” nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa.
Cả người và bò vàng đều ngất ngưởng. Như một sự thách đố với “miệng thế”. Cho đến nay dân gian vẫn cười và truyền tụng bài thơ đề vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào:
Tám câu tiếp theo trong hai khổ dôi nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa kia là một vị đại thần, một danh tướng “tay kiếm cung” thế mà nay sống cuộc đời hiền lành, bình dị “nên dạng từ bi”.
Ông đã sống hết mình và chơi cũng hết mình. “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” là một tứ thơ độc đáo.
Câu thơ tự trào gợi ít nhiều hóm hỉnh. Bụt cười, hay thiên hạ cười? Hay ông Hi Văn tự cười mình?
Có biết Nguyễn Công Trứ là một nhà nho được đào luyện nơi cửa Khổng sân Trình, một vị đại quan của triều Nguyễn thì mới thấy được một phần nào cá tính cốt cách khác đời, một nhân cách khác đời, rất phóng túng, phong tình và tài tình hiếm thấy của ông.
Không quan tâm đến chuyện “được, mất”, bỏ ngoài tai mọi lời thị phi, khen chê, ông đã sống một cách nhi nhiên, hổn nhiên, vô cùng thảnh thơi, vui thú.
Tuy ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao. Đây là hai câu thơ tuyệt hay trong “Bài ca ngất ngưởng”:
Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hoà thanh (bằng, trắc), lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp (khi… không..,) đã tạo cho câu thơ phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần.
Nghĩa vua, tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thuỷ chung, trọn vẹn “nghĩa vua tôi”. Ông đã viết trong bài “Nợ tang bồng”:
“Chí tang bồng hẹn với giang san,
Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác”.
Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải “vẹn đạo vua tôi” mới trở thành “tay ngất ngưởng”, “ông ngất ngưởng” được.
Và cách sống ngất ngưỏng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, không vướng tục”, cũng không thoát li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng.
Cái nhan đề, thi đề “Bài ca ngất ngưởng” của ông Hi Văn rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của nhà thơ cũng rất độc đáo.
Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất “ngông”. Một đằng ngất ngưởng mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn.
Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi cuốn, hấp dẫn.
Trong nền thi ca cổ điển Việt nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… là những nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác.
Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, chất tài tử hoà nhập với chí anh hùng, nợ tang bồng, chí nam nhi.
Đó là phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. “Bài ca ngất ngưởng” đích thực là “Bài ca từ đáy lòng” của ông Hi Văn cho ta nhiều thú vị.
🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng 🌻 Chia sẻ Thơ Lê Anh Xuân Hay
Nguyễn Công Trứ là người có tài, hoạn lộ gặp nhiều thăng trầm. Ông để lại cho hậu thế khoảng 150 tác phẩm trên nhiều thể loại nhưng thành công nhất ở thể loại hát nói.
Bài ca ngất ngưởng là một trong những tác phẩm hát nói xuất sắc nhất của ông thể hiện cá tính tài tử của bản thân.
Bài thơ được sáng tác trong thời gian ông cáo quan về ở ẩn tại quê nhà. Với thể loại hát nói tự do, phóng khoáng rất phù hợp để thể hiện cá tính, con người của Nguyễn Công Trứ. Văn bản thể hiện rõ lối sống ngất ngưởng của ông khi làm quan cũng như khi cáo quan về ở ẩn.
Theo quan điểm của Nguyễn Công Trứ, ngất ngưởng là sự thể hiện của tính cách cao ngạo, thoát ra ngoài khuôn khổ xã hội phong kiến chuyên chế. Đây đồng thời cũng là phong sống có bản lĩnh cá nhân, khác đời và hơn đời.
Sáu câu thơ đầu thể hiện lối sống ngất ngưởng khi ông đang làm quan. Trước hết ở ý thức trách nhiệm của ông trước cuộc đời và lòng kiêu hãnh tự tin về bản thân: Vũ trụ nội mạc phi phận sự.
Ông khẳng định mọi việc trong trời đất này đều thuộc trách nhiệm của ông. Lời nói đó cho thấy Nguyễn Công Trứ dám khẳng định ý nghĩa, vai trò của bản thân đối với đất nước. Thể hiện ở quan niệm về việc làm quan rất khác người – vừa là danh lại vừa là nợ:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Là danh bởi đây chính là cơ hội để ông chứng tỏ bản thân, chứng tỏ tài năng hơn người, khác người của mình, dùng tài năng đó để cống hiến, phục vụ cho đất nước.
Nhưng lại là nợ bởi làm quan sẽ bị ràng buộc bởi trách nhiệm, ông buộc phải chấp nhận cuộc sống gò bó, mất tự do khi ở chốn quan trường.
Vốn là người mang trong mình bản tính tự do, tự tại khi bị ép vào khuôn phép cũng là một điều khó khăn đối với Nguyễn Công Trứ.
Tuy nhiên vì ý thức trách nhiệm và niềm kiêu hãnh tự tin nên Nguyễn Công Trứ đã gạt đi thú vui thích của bản thân, theo đuổi con đường khoa cử, đỗ đạt ra làm quan để thực hiện hoài bão giúp nước, giúp đời.
Trong những năm cống hiến cho đời, ông đã làm được nhiều điều và ông tự hào về những điều mình đã làm được, mình đã cống hiến:
Trong cuộc đời làm quan, Nguyễn Công Trứ đã trải qua nhiều chức quan khác nhau: tham tán, tổng đốc Đông, bình tây đại tướng,… đều là những chức vụ quan trọng trong triều đình. Điều đó cho thấy tài năng hơn người của ông.
Đồng thời đã cho thấy ý thức trách nhiệm cũng như thái độ tự tin, kiêu hãnh của Nguyễn Công Trữ trước những thành quả mình đạt được. Những cống hiến ấy không chỉ thể hiện tài năng hơn đời mà còn thể hiện tấm lòng ưu dân ái quốc của ông.
Khi đang ở đỉnh cao ở vinh quang, năm 70 tuổi Nguyễn Công Trứ xin cáo quan về quê mãi cho đến lần thứ mười hai ông mới được chấp nhận.
Về quê ông hưởng thụ cuộc sống tự do, tự tại, ngao du sơn thủy. Hành động của ông khi cáo quan về quê cũng thể hiện tư thế ngất ngưởng, khác người: Đô môn giải tổ chi niên/ Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Hành động đó như một sự thách thức đối với hệ thống quan lại đương thời, đồng thời cũng khẳng định thái độ không còn luyến tiếc với hư vinh mà triều đình đem lại.
Ông kiêu hãnh, tự hào với lối sống ngất ngưởng của mình: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Nguyễn Công Trứ tự xếp mình ngang hàng với những người tài năng, nhân cách lỗi lạc. Khẳng định sự khác đời và hơn đời của phong cách sống ngất ngưởng.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông? Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ là thái độ tự tin và bằng lòng của Nguyên Công Trứ về phong cách sống có bản lĩnh mà ông suốt đời tâm niệm.
Đây là lối sống có trách nhiệm với đời, cần phải tận lực cống hiến và cống hiến có kết quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng cần phải biết hưởng thụ những niềm vui mà cuộc sống dành cho mình.
Đó còn là lối sống trung thực, dám là chính mình, vượt ra khỏi khuôn mẫu khắc kỉ phục lễ chật chội, giả dối.
Với thể thơ hát nói tự do, phóng khoáng đã giúp Nguyễn Công Trứ thể hiện thành công lối sống ngất ngưởng của bản thân.
Lối sống đó thể hiện cá tính tự do, phóng khoáng, bản lĩnh sống lành mạnh, có sự phá cách về quan niệm sống, vượt qua những khe khắt, giáo điều của lễ giáo phong kiến.
🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Ca Ngất Ngưỡng 🌻 Chia sẻ Cảm Nhận Bài Thơ Ánh Trăng
Cảm Nghĩ Về Người Thân Lớp 7 Ngắn Gọn❤️️15 Bài Hay Nhất
Cảm Nghĩ Về Người Thân Lớp 7 Ngắn Gọn ❤️️ 15 Bài Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Nêu Cảm Nghĩ Về Người Thân Lớp 7.
I. Mở bài: Giới thiệu đối tượng biểu cảm (ai) và tình cảm chung với đối tượng ( yêu quý, tự hào, biết ơn..)
II. Thân bài: Biểu cảm cụ thể về người đó.
III. Kết bài:
Khẳng định lại tình cảm yêu quý của mình với đối tượng.
Liên hệ mình cần làm gi để thự hiện tình cảm trên.
Tham khảo văn ❤️️Biểu Cảm Về Người Thân ❤️️ 15 Bài Văn Cảm Xúc Hay Nhất
Bài văn mẫu Cảm nghĩ về người thân lớp 7 ngắn gọn sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý cần thiết để thực hiện bài viết của mình.
Trong gia đình, ông nội chính là người em yêu thương và kính trọng nhất. Ông là một điểm tựa tinh thần vững chắc cho con cháu.
Ông nội của em năm nay đã bảy mươi tư tuổi. Nhưng ông vẫn còn minh mẫn lắm. Trước khi nghỉ hưu, ông em là một cán bộ nhà nước. Ông rất yêu thương con cháu. Nhưng ông cũng rất nghiêm khắc khi chúng em mắc lỗi. Tuy tuổi đã cao nhưng ông vẫn còn rất khỏe. Hàng ngày, ông đều dậy sớm để đi bộ. Sau đó ông còn đưa em tới trường.
Ông nội của em rất yêu thích công việc trồng cây nên vườn nhà lúc nào cũng đầy những cây trái. Khu vườn được ông chăm sóc nên cây cối quanh năm đều xanh tốt. Những cây ăn quả đã cho trái ngọt không biết bao nhiêu mùa. Sau khi làm xong những công việc vặt trong nhà, ông thường ra vườn chăm sóc cây cối. Lúc đó, em lại chạy theo ông để đòi được giúp ông tưới tắm cho cây cối trong vườn. Ông đã dạy em phải chăm chút cây cối một cách nâng niu, cẩn thận. Như vậy, đến mùa, cây cối mới ra hoa kết trái, chúng tôi mới được hưởng hoa thơm quả ngọt.
Em rất yêu thương và kính trọng ông nội. Em mong ông sẽ luôn khỏe mạnh để sống thật lâu cùng với mọi người trong gia đình.
Gợi ý thêm❤️️ Cảm Nghĩ Về Mẹ Của Em ❤️️ 17 Bài Văn Biểu Cảm Hay Nhất
Bài văn Cảm nhận về người thân lớp 7 hay sau đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp.
Trong cuộc đời mỗi chúng ta sẽ luôn có những người có ảnh hưởng lớn tới tính cách, cuộc đời mình. Em cũng thế. Người mà em luôn ngưỡng mộ, yêu thương và là thần tượng lớn nhất trong cuộc đời mình chính là mẹ em.
Mẹ em là một người phụ nữ tuyệt vời. Mẹ không cao lắm nhưng rất nhanh nhẹn, tháo vát. Mọi công việc trong nhà mẹ đều quán xuyến, lo liệu chu đáo. Mẹ không phải là một người phụ nữ có ngoại hình xinh xắn. Nước da của mẹ ngăm ngăm do cháy nắng và những ngày tháng vất vả ngoài đồng, dưới cái nắng gay gắt của những ngày hè. Làn da của mẹ cũng chẳng mịn màng, mềm mại mà nó thô ráp, sần sùi. Nhiều lần em cũng thắc mắc nhưng mẹ chẳng bao giờ để ý đến mấy điều ấy. Bởi với mẹ, còn nhiều thứ phải lo, nhiều thứ còn quan trọng hơn cả làn da của mình.
Mẹ chỉ mới hơn 40 tuổi nhưng nhìn mẹ chẳng ai bảo mẹ mới 40, vì khuôn mặt mẹ khắc khổ và già cỗi quá. Những nếp nhăn ở trán, ở cằm, ở hai bên khóe mắt mỗi ngày lại hằn sâu hơn. Đâu phải mẹ muốn thế, cũng chỉ vì cuộc sống đùn đẩy mà thôi. Bố em mất sớm nên mọi gánh nặng trong gia đình dều đổ dồn lên đôi vai gầy của mẹ. Có ai đó đã từng viết những vần thơ về sự hi sinh của mẹ khiến em thực sự xúc động:
“Con lớn lên bên dòng nước suối mơ.
Và lớn lên trên vai đôi gầy của mẹ.”
Gần nhà em không có dòng suối mơ, nhưng lại có tình thương của mẹ như nguồn suối chẳng bao giờ cạn. Và quả thực chúng em lớn lên trên đôi vai gầy của mẹ. Em càng lớn, đôi vai của mẹ càng trĩu xuống vì những gánh nặng mới. Đôi mắt mẹ vẫn luôn dõi theo từng bước chân của chúng em. Đôi mắt đùng đục ấy vẫn sáng lên niềm vui và sự tự hào mỗi lần nhìn thấy chúng em thành công trên con đường của mình.
Em sẽ nhớ mãi ánh mắt rưng rưng của mẹ khi dõi theo em lên bục nhận giải học sinh giỏi Văn của thành phố năm nay. Mẹ nói mẹ không khóc nhưng đôi mắt mẹ lại đỏ hoe. Em biết mẹ nói dối. Chắc chắn khi ấy mẹ rất vui và hạnh phúc. Vì tất cả những gì mẹ đánh đổi, cho đến giây phút này đều xứng đáng. Nhìn những đứa con của mình lớn lên, trở thành người tốt, ngoan ngoãn thì có gì mà người mẹ không đánh đổi được? Vì chúng em, có vất vả hơn nữa, mẹ cũng bằng lòng.
Em nghe mọi người trong nhà kể, trước đây mẹ cũng là một cô tiểu thư cành vàng lá ngọc, được nuôi dạy rất tử tế. Nhưng mẹ gặp và yêu bố, bất chấp sự phản đối của gia đình, mẹ và bố vẫn lấy nhau. Chẳng may bố mất sớm, mẹ vẫn một mình nuôi chúng em, chẳng hề kêu ca, than vãn. Mẹ là một người phụ nữ mạnh mẽ, tảo tần và giàu đức hi sinh. Mẹ luôn dạy chúng em từ những thứ nhỏ nhất: cách đi đứng, ăn uống, nói năng. Có lẽ bây giờ chúng em sẽ trách mẹ nghiêm khắc quá nhưng sau này chắc chắn em sẽ phải cảm ơn mẹ vì sự nghiêm khắc ấy.
Bài văn cảm nghĩ về người thân mẹ lớp 7 hay nhất sau đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Mẹ chính là điểm tựa lớn lao nhất để giúp con người có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Trong gia đình, người tôi yêu thương nhất cũng chính là mẹ.
Mẹ tôi năm nay đã bốn mươi tuổi. Mẹ có một khuôn mặt hình trái xoan. Làn da đã điểm những nốt tàn nhang. Nước da không còn trắng hồng như trước đây. Mẹ không cao lắm. Dáng người khá đầy đặn. Đôi bàn tay đã chai sần vì những ngày tháng làm việc vất vả. Mẹ tôi là một bác sĩ. Công việc thường ngày của mẹ vô cùng bận rộn. Nhưng mẹ vẫn dành thời gian về nhà để nấu cơm cho cả gia đình. Đối với mẹ, bữa tối chính là lúc cả gia đình sum họp sau một ngày làm việc hay học tập vất vả. Bởi vậy mà bữa cơm luôn được mẹ chăm chút.
Nhớ lại khi còn nhỏ, không ít lần tôi đã khiến mẹ phải lo lắng. Đó có thể là những khi tôi bị ốm, mẹ phải thức suốt đêm để chăm sóc. Đó có thể là khi tôi mải chơi cùng các bạn mà về nhà muộn. Đó có thể là khi tôi không chịu học bài nên bị điểm kém. Mỗi lần như vậy, mẹ đều nhẹ nhàng khuyên bảo.
Một hôm, sau giờ học, nhóm bạn trong lớp rủ tôi đi chơi. Tôi không cần suy nghĩ mà đồng ý luôn. Do mải chơi nên đến khi nhận ra thì cũng đã khoảng chín giờ tối. Tôi cảm thấy khá sợ và nhanh chóng đạp xe trở về nhà. Đến đoạn đường tối, tôi bỗng đâm phải một chiếc xe máy. Tôi ngã ra, cảm thấy chân tay đều rất đau. Người đi xe máy nhanh chóng hỏi han và gọi điện cho mẹ đến.
Nhìn khuôn mặt lo âu của mẹ lúc đó, tôi cảm thấy rất hối hận. Tôi liền ôm chầm lấy mẹ và khóc nức nở. Mẹ chỉ nhẹ nhàng xoa đầu tôi và nói: “Không sao đâu con!”. Qua kỉ niệm lần đó, tôi đã hiểu được tình yêu thương của mẹ dành cho mình. Từ đó, tôi cố gắng học tập chăm chỉ, giúp đỡ mẹ những công việc nhà.
Tình mẹ bao la, rộng lớn như biển cả. Chính nhờ có mẹ mà những đứa con thêm trưởng thành hơn. Tôi tự hào khi có mẹ ở bên, và mong rằng mẹ sẽ luôn mạnh khỏe để tiếp tục là điểm tựa vững chắc cho tôi.
Với bài Cảm nghĩ về người thân văn lớp 7 ấn tượng sau, các em học sinh sẽ luyện tập cho mình cách viết giàu hình ảnh hơn.
Gia đình em có 4 người, mẹ em, bố em, anh hai và em. Mẹ em lúc nào cũng dễ dãi, nuông chiều con cái, còn bố em thì ngược lại, rất nghiêm túc. Thế nhưng em vẫn kính yêu bố em vô cùng.
Nhìn bố, ít ai nghĩ rằng bố đang ở vào độ tuổi bốn mươi lăm. Vì tóc bố vẫn còn đen, chỉ có lơ thơ vài sợi tóc trắng. Người bố hơi cao, không mập lắm, nên có vẻ khỏe khoắn. Sở dĩ được như vậy là do bố em năng tập thể dục vào mỗi buổi sáng. Nghe bà nội em kể rằng, thuở nhỏ bố em rất thích chơi thể thao; bóng chuyền, bóng bàn môn nào bố cũng giỏi. Gương mặt bố hao hao hình chữ điền, trông đầy nét cương nghị.
Hàng ngày, sau giờ làm việc ở cơ quan về, bố em còn cuốc đất vun gốc cho mấy cây trồng xung quanh nhà. Cho nên, tuy vườn không phải là rộng lắm nhưng có nhiều thứ hoa quả. Cây nào cây nấy thẳng lối ngay hàng, đẹp chẳng khác chi một công viên nho nhỏ.
Đêm đêm, bố em hay thức tới khuya để làm thêm một số công việc tăng thu nhập cho gia đình. Em biết rõ điều đó lắm. Vì chúng em mà bố em phải chịu nhiều vất vả. Nhưng bố nào có quản khó nhọc gì đâu. Bố thường nói với mẹ em rằng, dù cực khổ mấy cũng chịu được, miễn là nhìn thây chúng em ngoan ngoãn, siêng năng học hành là ba đã vui rồi. Bây giờ em mới hiểu câu “Công cha như núi Thái Sơn” thật là cao cả biết dường nào.
Những lúc rảnh rỗi, bố em thường dắt chúng em đi dạo quanh làng. Vừa đi, bố vừa kể chuyện hay giảng giải những điều thắc mắc chúng em thường gặp. À, mà sao cái gì bố cũng biết, biết nhiều thứ lắm. Anh Hai và em cứ nhờ bố giảng cho bài văn, hướng dẫn cho bài toán. Bố đúng là ông thầy thứ hai, ở nhà.
Em rất kính yêu bố em. Nhờ có bố mà cả gia đình sống trong cảnh ấm no, hạnh phúc. Cho nên, lúc nào, em cũng cố gắng học thật giỏi để bố em được vui lòng.
Với yêu cầu viết bài văn Cảm xúc về người thân văn 7 – bố thì các em học sinh không nên bỏ qua bài văn mẫu được chúng tôi gợi ý sau đây.
Tình cha con luôn là thứ tình cảm âm thầm, lặng lẽ nhưng mạnh mẽ và da diết. Chưa bao giờ em viết bất cứ một điều gì dành cho cha, bởi rằng có lẽ ngôn từ không đủ sức để diễn tả hết tình cảm đó. Và có lẽ em không đủ can đảm để viết ra những lời tự sâu trong trái tim dành cho cha. Đó là một người đàn ông đặc biệt trong cuộc đời em hôm nay và cả mai sau nữa.
Cha là người mang đến cho em một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc và nhiều yêu thương như thế này. Cha gánh trên đôi vai gầy cả một gia đình lớn, gánh hết ước mơ của những đứa con đnag tuổi ăn tuổi học. Những điều cha làm cho chúng em chưa bao giờ là thừa, bởi với cha, tình yêu chưa bao giờ là đủ giành cho gia đình.
Cả cuộc đời cha nhọc nhằn, vất vả, tần tảo sớm hôm vì miếng cơm manh áo của gia đình, của những đứa con thơ đang trông ngóng trông từng ngày.Nếu như mẹ âm thầm tần tảo sớm hôm thì cha là người đàn ông đầy nghị lực, gánh vác hết mọi chuyện lớn trong gia đình.
Cha như cây đại thụ chống những cơn bão nổi dậy trong gia đình. Nếu không có ý chí, nghị lực và tình yêu phi thường thì cha không thể gánh vác được trách nhiệm lớn lao như thế.
Em vẫn thường bắt gặp hình ảnh người mẹ dịu hiền, đảm đang, tần tảo trong những câu thơ, áng văn của nhiều nghệ sĩ; nhưng hình ảnh người cha thật hiếm hoi. Có lẽ tình cảm giành cho mẹ rất dễ bày tỏ nhưng đối với cha thì rất khó khăn. Tuy nhiên không phải thế mà vai trò người cha trở nên giảm đi. Ngược lại vai trò và trách nhiệm ngày càng to lớn và được khẳng định mãnh liệt hơn.
Cha em là một người rất hiền lành, mọi việc trong nhà cha đều lo toan, những việc nhà cha cũng hay đỡ đần giúp mẹ. Có rất nhiều lúc mẹ cười bảo với mấy chị em rằng “Cha mấy đứa ai cũng khen giỏi giang, không ngại giúp việc nhà cho vợ”. Em rất tự hào vì có người cha tuyệt vời như vậy.
Em còn nhớ có một lần mẹ ốm, phải đi viện. Những ngày này cha vừa làm tròn vai trò người cha, vừa gánh thêm vai trò làm mẹ. Sáng sáng cha dậy nấu cơm cho con ăn, rồi đưa con đi học, rồi quét dọn, chăm sóc đàn heo vừa mới sinh. Cha lo lắng cho mẹ đến nỗi hốc hác cả gương mặt, đôi mắt cha trở nên nặng nề nhưng vẫn ánh lên niềm tin yêu trong cuộc sống.
Cha là con út trong gia đình của ông nội, các cô và bác đều đi xa. Cha gánh vác chuyện gia đình mình và gia đình lớn của ông nội. Cha vẫn đều đặn chăm sóc ông bà, thường xuyên dẫn ông bà đi khám sức khỏe định kì.
Có nhiều lúc em thấy cha loay hoay bên bếp lò, nấu bát canh chua cho ông bà nội. Bởi đây là món mà ông bà rất thích ăn. Cha đã tự tay vào bếp làm cho ông bà mà không cho các con nấu. Một cử chỉ bình dị nhưng đã nói lên được tấm lòng hiếu thảo, đáng trân trọng mà cha dành cho ông bà.
Cha là một người giàu đức hi sinh, vẫn luôn dành cho gia đình những điều tốt đẹp nhất. Có nhiều lúc đi làm về, em nhìn thấy sự mệt nhọc trên gương mặt cha nhưng cha vẫn nở nụ cười tươi, vẫn luôn mang đến cho gia đình không khí vui tươi nhất.
Chưa bao giờ cha kêu ca, than vãn mệt mỏi hay cuộc sống có quá nhiều thứ phải lo toan. Đây là điều mà em học được ở cha, một đức tính là một người đàn ông cần có được.
Cha luôn là một người đàn ông tuyệt vời và vĩ đại nhất đối với gia đình em. Là tấm gương sáng về cách làm người mà em đã học tập được rất nhiều. Em mong sao cha luôn khỏe mạnh, vui vẻ để cả nhà em luôn được hạnh phúc sum vầy như thế này.
Hai tiếng “bà ngoại” trong tôi vô cùng đẹp và thiêng liêng. Cả tuổi ấu thơ của tôi đều gắn liền với những kỉ niệm về người bà yêu quý. Những kỉ niệm ấy được bà vun đắp và gieo trồng tạo nên một góc đẹp trong tâm hồn tôi. Đó là những lời tự tận đáy lòng mà tôi mún nói với bà – người tuyệt vời nhất trong trái tim tôi.
Lúc nhỏ khi mới một tuổi, bố mẹ tôi bận đi làm nên tôi lên ở với ngoại từ đó. Nghe mẹ kể lại tôi nhỏ xíu xa bố mẹ tôi khóc suốt, bà thì cũng có tuổi thế mà ngày nào cũng phải thức để dỗ dành kể chuyện hát ru cho tôi ngủ. Cho tới tận bây giờ, cái mùi trầu thơm đượm bà nhai vẫn còn mơn man trong tâm hồn tôi.
Hồi đó người đầu tiên chứng kiến những bước đi chập chững đầu đời, tiếng nói ngượng nghịu của tôi chính là bà. Bà luôn kiên nhẫn cầm tay và hướng dẫn tôi đi, luôn chỉnh sửa lời nói cho tôi. Tôi biết chắc chắn rằng người đầu tiên tôi gọi sẽ là bà. Bà đã mừng lắm đấy.
Bà là người đầu tiên dạy cho tôi biết yêu thương mọi người – đỡ bạn cùng lớp khi vấp ngã, người đầu tiên đã mang cả thế giới đến bên tôi, người đã nâng đỡ chở che cho tôi trong sự bỡ ngỡ lạ lẫm khi tôi tự đứng vững đi những bước đầu đời. Chính vì lẽ đó, hình ảnh bà đã chiếm trọn trái tim thơ ngây của tôi.
Lớn hơn một chút, tôi đã biết nói nựng với bà: “Con không chơi với bà, bà không mua gấu cho con”. Bà ôm tôi vào lòng thủ thỉ: “Con à, cố gắng ngoan ngoãn và học thật giỏi, bà sẽ mua gấu thật to cho con nha”. Câu nói ấy của ngoại giờ đây vẫn còn vang vọng trong tôi như một lời nhắc nhở tôi phải cố gắng, cố gắng nhìu hơn nữa. Bà chính là động lực, là bến bờ đem đến cho tôi niềm tin và hi vọng.
Tôi thật sự rất hiểu và cám ơn những lời bà dạy. Tôi sẽ mãi cố gắng để có một tâm hồn đẹp như bà vậy. Cám ơn bà đã đem cả thế giới đến bên tôi, giúp tôi làm quen và cảm nhận nó. Ở bên bà, tôi luôn tìm được sự ấm áp đến lạ kì. Bà như bà tiên hiền hậu trong truyện cổ tích với bao phép lạ kì, biến một con bé không biết gì thành người thuộc làu những câu truyện cổ tích, khiến tâm hồn tôi đẹp hơn, tốt hơn. Bà luôn là người mà tôi hãnh diện, khoe với tụi bạn. Nhìn ánh mắt thán phục của tụi bạn với bà tôi hạnh phúc lắm.
Trong trái tim tôi trước đây, bây giờ, và mãi mãi về sau, bà sẽ luôn là bà tiên đẹp nhất, hiền nhất và đáng kính nhất trong lòng tôi. Sự yêu thương và niềm vui của bà sẽ mãi lan tỏa xung quanh làm rạng ngời, tỏa sáng tâm hồn tôi.
Giới thiệu thêm bài văn❤️️ Cảm Nghĩ Về Nụ Cười Của Mẹ ❤️️ 15 Bài Văn Hay Nhất
Bài văn cảm nghĩ về người thân của em lớp 7 hay sẽ giúp các em học sinh nắm vững phương pháp làm bài và nâng cao kỹ năng viết.
Trong cuộc sống, gia đình có vai trò vô cùng quan trọng. Những người thân trong gia đình giống như một điểm tựa tinh thần. Và bà nội chính là người mà em yêu thương nhất.
Năm nay, bà nội của em bảy mươi ba tuổi. Bà không cao lắm, dáng người nhỏ nhắn. Chiếc lưng của bà đã còng xuống vì những năm tháng nhọc nhằn của cuộc đời. Khuôn mặt của bà phúc hậu. Mái tóc đã bạc trắng. Làn da đã in hằn dấu vết của thời gian. Đôi mắt của bà đã mờ đục đi nhiều. Nhưng ánh mắt trìu mền của bà vẫn luôn còn đó. Đôi bàn tay nhăn nheo với nhiều vết chai sần. Đôi bàn tay làm lụng để nuôi con, chăm cháu. Có đôi khi em thường nắm lấy đôi bàn tay của bà để cảm nhận hơi ấm. Nó giống như một nguồn sức mạnh sưởi ấm tâm hồn em. Những vất vả trong cuộc sống vẫn không làm mất đi sức khỏe và sự minh mẫn của bà.
Ông nội mất sớm, bà sống cùng gia đình em từ rất lâu rồi. Khi đó, em vẫn còn bé xíu. Bố mẹ bận đi làm xa, bà là người đã chăm sóc em. Đến khi lớn lên, bà hay kể cho em nghe nhiều câu chuyện bổ ích. Nhờ có bà mà em đã thấu hiểu hơn nỗi khổ cực của nhân dân ta trong những năm chiến tranh ác liệt. Bà cũng đã dạy em phải biết yêu thương, biết chia sẻ với mọi người. Nhờ có sự động viên của bà mà em đã cố gắng học tập thật tốt để tương lai sẽ trở thành một người có ích cho xã hội.
Kỉ niệm về bà có rất nhiều. Nhưng em vẫn còn nhớ mãi về ngày đầu tiên đi học. Không phải bố mẹ, bà là người đã đưa em đến trường. Chính bà cũng đã động viên em theo cô giáo vào lớp học. Nhờ có sự động viên của bà, em đã quên đi sự bỡ ngỡ, lo lắng của mình.
Ngày hôm nay, bà nội đã không còn nữa. Nhưng những kỉ niệm về bà đối với em rất đáng trân trọng. Em sẽ cố gắng học tập, rèn luyện thật tốt để trở thành một con người có ích như bà mong muốn.
https://youtu.be/ZFB2wJxtR6I
Gia đình em là một gia đình lớn, gồm: ông bà nội, ba má, cô út và hai chị em em. Em nhỏ nhất nhà nên trong nhà, ai cũng quan tâm và chăm lo cho em nhiều lắm. Có thể nói, bà nội em là người “đứng mũi, chịu sào” trong việc lo toan vun vén và sắp xếp mọi hoạt động trong nhà và cũng là người gần gũi và quan tâm đến em nhiều nhất. Em yêu quý và kính trọng nội em vô cùng.
Năm nay, bà nội em năm mươi chín tuổi. Khi chưa nghỉ hưu, nội em là giáo viên bậc Tiểu học gần nhà. Khi chưa nghỉ hưu, nội em rất trẻ và rất đẹp. Năm ấy, nội năm lăm tuổi mà chưa ai đến nhà nói đúng tuổi nội. Bà nội đứng bên cạnh mẹ em, trông như hai chị em. Chẳng ai nghĩ đó lại là mẹ chồng với nàng dâu. Năm nay, bà nội 59 tuổi. Tuy lớn tuổi nhưng trông bà nội em vẫn rất trẻ. Ai cũng nói nội em chỉ khoảng 50 tuổi là cùng.
Nội em có khuôn mặt trái xoan, có sông mũi dọc dừa, đôi mắt to, lông mày đậm hơi cong tự nhiên, không tỉa tót nên rất đẹp. Bà nội em ăn mặc giản dị nhưng rất nền nã. Nội em toàn chọn những màu hơi tối như tím than, xanh dương đậm, tím đậm. Có lẽ da nội trắng nên mặc những màu đó, bà nội càng trẻ, càng đẹp hơn.
Từ ngày nghỉ hưu, suốt ngày bà nội em chẳng chịu nghỉ ngơi mà lúc nào cũng luôn tay. Có thể nói, nội em là người của công việc. Buổi sáng, nếu mẹ em đi làm ca thì bà nội là người lo mọi công việc của một người nội trợ như quét dọn, nấu nướng, giặt giũ…. Vì thế, đi học về, hôm nào em cùng có sẵn cơm ngon, canh ngọt. Khi làm hết mọi việc trong gia đình, bà nội lại nghĩ ra nhiều món ăn mới. Nội ghi ghi, chép chép cách nấu để ngày chủ nhật liền đó thế nào cả nhà cũng có một bữa ăn với những món ăn rất ngon bà nội đã tự sáng chế ra. Thương bà nội vất vả, em luôn tranh thủ thời gian để giúp nội những việc lặt vặt trong nhà như quét dọn nhà cửa, đánh ấm chén,…
Bà nội em sống rất nghĩa tình và tốt bụng. Bà con lối xóm ai cũng nể trọng bà và luôn lấy bà nội em ra làm tấm gương để dạy bảo con cháu.
Với em, bà nội còn là nơi em gửi gắm niềm vui, nỗi buồn. Có những chuyện em không thể tâm sự được với mẹ nhưng lại có thể nói với bà. Những lúc ấy, bà nội em quả thực là điểm tựa tinh thần vững chắc cho em.
Nội em đúng là người phụ nữ có vẻ đẹp truyền thống. Nội đẹp về ngoại hình, đẹp về tâm hồn và cũng rất đẹp trong những việc làm. Em vô cùng yêu quý, kính trọng và biết ơn bà nội của em. Em sẽ luôn chăm học, chăm làm, hiếu thảo với bà nội để bà vui, bà sống lâu trăm tuổi cùng con cháu.
Bài văn cảm nghĩ về người thân lớp 7 siêu ngắn sau đây sẽ giúp ích các em học sinh rất nhiều trong việc hành văn súc tích, mạch lạc.
Mẹ là người phụ nữ mà em yêu thương, kính trọng và biết ơn nhất trên cuộc đời này. Mẹ của em là một người phụ nữ thôn quê bình thường như biết bao người phụ nữ khác. Ngày ngày tất bật với ruộng vườn và những công việc không tên trong gia đình.
Thân hình của mẹ đầy đặn, với chiều cao khá khiêm tốn. Bởi công việc hằng ngày, nên mẹ có nước da màu nâu khỏe mạnh. Mái tóc đen có chút cháy vàng ở đuôi, lúc nào cũng được buộc lên gọn gàng. Mỗi khi cười, mẹ khoe hàng răng trắng đều như hạt bắp, và đôi mắt sẽ sáng rực lên như dải ngân hà.
Mẹ luôn yêu thương, quan tâm cho em vô điều kiện. Có gì ngon cũng nhường cho em, có gì tốt cũng nghĩ đến em đầu tiên. Mỗi khi gặp khó khăn, mệt mỏi, em luôn được mẹ ở bên kiên nhẫn động viên, giúp đỡ. Mẹ chính là thiên thần hộ mệnh của riêng em.
Với em, mẹ là tất cả, là bến bờ của hạnh phúc. Được ở bên mẹ, được nghe giọng nói dịu dàng của mẹ, được đôi bàn tay của mẹ vuốt ve lên mái tóc, chính là những điều tuyệt vời nhất trong cuộc sống này.
Ông nội em năm nay đã gần tám mươi tuổi. Tuy thế, ông vẫn thật khỏe mạnh. Ông có dáng người đậm và chắc, bước đi điềm tĩnh, khoan thai. Râu tóc của ông đã bạc trắng nhưng da dẻ vẫn hồng hào. Đôi mắt của ông không còn màu đen trong tinh anh mà đã thoáng màu mờ đục, khi đọc sách, ông thường phải dùng đến cặp kính lão cất cẩn thận trong hộp. Râu ông mọc dài đến ngang ngực.
Đôi lúc, hình ảnh của ông khiến em nghĩ đến một ông tiên, ông Bụt nào đó trong cổ tích. Đặc biệt, hai cánh tay của ông còn khá săn chắc, thỉnh thoảng, ông vẫn xách những xô nước mà em phải ì ạch mãi không di chuyển được. Nhìn ông đánh đàn trâu ra bờ mương chăn không ai tin được tuổi ông đã đến vậy.
Ông cũng rất ít ốm đau, các cô bác hàng xóm thường khen: “Ông thật có phúc!”. Riêng em, em hiểu rõ tại sao sức khỏe của ông lại tốt như thế. Ấy là vì ông rất chăm tập thể dục. Sáng sáng, ông dậy sớm làm vệ sinh cá nhân rồi lên tầng thượng tập tạ. Buổi chiều, ông lại gọi em, hai ông cháu chạy bộ trong sân trường tiểu học.
Thêm nữa còn là chế độ ăn uống của ông. Mồi bữa ông ăn nhất định một sô lượng cơm, ăn nhiều rau và mỗi ngày uống một chén rượu nhỏ. Điều em khâm phục nhất là ông giữ chế độ tập luyện và ăn uống rất điều độ.
Em học được ở ông tính tự giác và kỉ luật cao: theo tấm gương ấy của ông, em học bài và làm bài đều đặn, cô gắng không để những việc riêng làm ảnh hưởng đến chuyện học tập. Không chỉ vậy, ông còn là một tấm gương mẫu mực về lối sống trong gia đình khiến mọi người yêu quý, kính trọng. Ông sống tiết kiệm, ngăn nắp và điềm tĩnh.
Phòng riêng của ông lúc nào cũng gọn gàng, sạch sẽ. Ông thường tự quét dọn, sắp xếp lấy phòng mình ít khi phiền đến con cháu. Mỗi dịp lễ Tết, bố mẹ em lại muốn mua biếu ông quần áo hoặc bộ cần câu mới nhung ông đều từ chối nói rằng để cho cu Tít (là em) ăn học.
Đôi khi, bố mẹ em có điều gì to tiếng với nhau, ông lại nhẹ nhàng hòa giải, nhắc nhở rằng phải biết lấy hòa thuận trong gia đình làm trọng, tránh cãi vã lẫn nhau ảnh hưởng không tốt đến con cái. Riêng em, từ nhỏ đến lớn, em giống như cái bóng nhỏ loắt choắt theo chân ông.
Với em, ông vừa cưng chiều vừa nghiêm khắc dạy dỗ. Được ai biếu tặng tiền, ông đều gọi bố mẹ em đến nói rằng ông cho thăng Tít, dặn bố mẹ em phải biết cách tiêu cho con. Lương hưu hàng tháng, ông cũng trích ra để khi thì mua cho em sách vở, lúc lại mua quà hay mua quần áo mới cho em.
Những lúc rảnh rỗi, ông còn dạy em làm điều, làm đèn Trung thu, câu cá. Thậm chí, ông còn làm “quân sư” cho em khi em gặp những chuyện không hay, khó xử nữa. Bởi thế, với em, nhắc đến ông là nhắc đến bao niềm yêu thương đầy thiêng liêng, xúc động. Ông nội thật là một cây cao bóng cả tỏa mát trên mái nhà của gia đình em.
Yêu quý ông, em ước ông sống thật lâu để em được học từ ông những điều hay điều đẹp. Em cũng tự nhủ phải cố gắng học thật giỏi để làm ông vui lòng!
Tiết lộ thêm 🌺Văn Biểu Cảm Về Mẹ Lớp 10 🌺
Ông ngoại em là người mà em yêu mến nhất. Ông rất gần gũi và chăm nom trong cả quãng đời thơ ấu.
Ông em năm nay đã ngoài 70 tuổi. Ông có vóc người gầy gầy, nhưng đi lại vẫn còn nhanh nhẹn. Hằng ngày ông thường mặc bộ đồ bà ba màu xám trông rất sạch sẽ. Khi đi đâu thì ông mặc quần tây áo sơ mi. Khuôn mặt ông gầy gầy, xương xương vì ông phải trải qua bao nhọc nhằn, vất vả. Tóc ông bạc gần hết, chải ngược ra sau đế lộ vầng trán cao cao, hằn in nhiều nhằn.
Đôi mắt ông còn rất sáng. Mỗi tối ông thường xem ti vi, chương trình thời sự. Răng ông đã rụng mấy cái làm cho cái miệng ông móm mém. Đôi bàn tay xương xương và rám nắng của ông minh chứng một điều ông đã phải trải qua những tháng ngày vất vả để nuôi con cháu. Thế nhưng, hiện giờ đôi bàn tay ấy vẫn còn nhanh nhẹn.
Mỗi buổi chiều ông thường xách nước tưới cây kiểng và chăm sóc cây, đó là một thói quen mà ông không thế bỏ được. Vườn cây của ông mùa nào quả nấy. Mỗi lần về thăm ngoại, chúng em tha hồ hái ăn mà không hề bị rầy la. Ông em luôn qua tâm đến con, cháu. Ông nhắc nhở từng li, từng tí, ông dạy chúng em biết yêu thương và quan tâm đến mọi người xung quanh. Ông đối xử tốt với những người trong xóm nên ai cũng quý ông.
Thương ông, em mong ông khỏe mạnh sống thật lâu. Ông như bóng mát của cây đa để cho con cháu làm chỗ dựa và phấn đấu vươn lên trong học tập trong cuộc sống.
Để hoàn thành tốt bài viết của mình thì các em học sinh nên đọc và tham khảo bài văn mẫu cảm nghĩ về người thân lớp 7 sinh động sau đây với những ý văn đặc sắc.
Bên cạnh tình mẫu tử thiêng liêng, còn có tình phụ tử sâu nặng. Công cha không kém phần so với nghĩa mẹ. Người cha giống như một điểm tựa vững chắc của mỗi đứa con, với em cũng vậy.
Bố của em là một người cha tuyệt vời. Năm nay, bố bốn mươi tư tuổi. Dáng người cao, nhưng khá đầy đặn. Làn da của bố rám nắng bởi hàng ngày phải làm việc nhiều dưới ánh nắng mặt trời. Mọi người thường nói em rất giống bố ở khuôn mặt nhỏ nhắn, vầng trán cao, đôi mắt đen láy và hiền từ. Giọng nói của bố trầm và nụ cười ấm áp khiến em luôn cảm thấy hạnh phúc khi được gần bên bố. Đôi bàn tay của bố thô ráp, em biết đó là những dấu vết của thời gian, của bao vất vả bố đã hi sinh để lo lắng cho chúng em một cuộc sống đủ đầy hơn.
Công việc của bố là một lái xe chở hàng. Đó là một công việc vất vả, hay phải xe nhà. Bởi vậy mà khi có ngày nghỉ, bố lại dành thời gian ở bên gia đình. Bố luôn lo lắng và rất thương hai mẹ con em. Bố luôn dặn em phải chăm chỉ học hành, không được làm mẹ buồn và lo lắng. Mỗi lần đi xa về, bố đều tặng em những món quà nhỏ từ những miền đất nơi bố đã từng đi qua. Em rất thích thú khi được nghe bố kể về quê hương đất nước Việt Nam vô cùng tươi đẹp và rộng lớn. Câu chuyện mà bố kể giúp em có động lực để cố gắng hơn trong cuộc sống.
Thỉnh thoảng, bố được nghỉ phép dài ngày. Lúc đó, bố sẽ đưa cả gia đình đi chơi. Em cảm thấy rất hạnh phúc khi được ở bên cạnh bố mẹ. Không chỉ vậy, bố cũng dạy em rất nhiều điều hay lẽ phải trong cuộc sống. Bố của em giống như người thầy với những lời khuyên bổ ích, người cho em động lực và niềm tin để vượt qua mọi giây phút buồn vui.
Đối với em, bố không chỉ là một người cha, mà còn là một người thầy. Em luôn dành cho bố sự kính trọng, yêu mến. Bố mãi là điểm tựa của hai mẹ con em.
Gợi ý thêm bài văn ❤️️Biểu Cảm Về Đôi Bàn Tay Mẹ ❤️️ 15 Bài Văn Hay Nhất
Bài văn cảm nghĩ về người thân lớp 7 giàu cảm xúc với những câu văn ngắn gọn sẽ giúp các em dễ dàng hoàn thành bài văn trên lớp của mình.
Người bố có vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Và tôi rất yêu thương bố của mình.
Bố tôi rất bận và thường xuyên phải xa nhà, giống như đi công tác vậy. Vì thế mà tôi luôn sống cùng ông bà, mẹ và chị gái, mong ngóng ngày bố về. Mặc dù thực tế rằng tôi vẫn thường khóc và trốn sau cánh cửa khi nhìn thấy bố. Tôi luôn theo dõi từng hành động của bố và cảm thấy vui khi có bố bên cạnh. Nếu bố chiều chị gái hơn, tôi sẽ lại khóc.
Bố tôi là người trầm tính, quyết đoán và tốt bụng, ông ấy tạo cho người khác cảm giác an toàn và thoải mái. Bố hay mua quà cho tôi với hy vọng ông có thể gần gũi với tôi hơn và một lần được chứng kiến con gái mình chân lon ton chạy tới gần, hôn lên má rồi nói : “Con yêu bố”. Cảnh tượng đó tôi cũng đã tưởng tượng ra nhiều lần và tự hứa với lòng mình rằng: phải sống bằng cảm xúc thật của mình và đừng lo sợ sự chia ly.
Thời gian trôi qua, bố tôi đã về nghỉ hưu nhưng tôi lại đi học xa nhà nên hai bố con hiếm khi gặp nhau. Lúc rảnh rỗi, tôi gọi cho bố và kể về những câu chuyện vui, về những cậu bạn trai mà tôi quý mến. Bất chợt nhận ra một điều là ngoài bố, tôi chẳng thấy người đàn ông nào trên đời này hoàn hảo cả.
Con người không thể thay đổi quá khứ, vì thế hãy cứ làm tốt những gì bạn có thể và đừng bao giờ để bản thân cảm thấy hối hận. Cuộc sống luôn tồn tại niềm vui và nỗi buồn, ta nên tập quen với điều đó. Nếu được quay về thời thơ ấu, tôi vẫn sẽ trốn sau cánh cửa và quan sát từng hành động của bố tôi. Điều quan trọng nhất bây giờ là bố đã hiểu tình cảm thật trong tôi.
Tham khảo❤️️ Bài Văn Tả Mẹ Đang Làm Việc ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Trong gia đình, với em mẹ là người thân thuộc nhất. Mẹ đã đồng hành cùng em trong mỗi bước đường đời. Và mẹ chính là điều đẹp đẽ nhất mà Thượng Đế đã dành tặng cho em.
Mẹ em đã ngoài 40 tuổi, vóc người cao và hơi gầy. Đôi mắt sâu ẩn chứa những nỗi lo toan của cuộc sống, khoé mắt lộ rõ những vết chân chim khá dài. Mẹ có nụ cười rất đẹp và ấm áp, nhìn mẹ cười em thấy mình thật nhẹ nhõm và an yên lạ kỳ. Mẹ không cầu kì trong ăn mặc, giản dị trong lối sống và là người rất cẩn thận, tỉ mỉ.
Là một người phụ nữ của gia đình nên mẹ rất chu đáo. Mỗi ngày mẹ phải thức dậy từ sớm để dọn dẹp và chuẩn bị bữa sáng cho cả nhà rồi ra vườn làm việc. Nhìn đôi bàn tay gầy guộc, chai sần của mẹ mà em thấy thương mẹ vô cùng. Mẹ đã phải lao động vất vả, lo toan mọi bề cho gia đình và cho chúng em. Mẹ luôn bảo “Dù vất vả, mệt nhọc mà các con được học hành tử tế sau này đỡ vất vả, mẹ cũng cam lòng”.
Mẹ ơi! Có ai yêu con hơn mẹ, có ai chịu nhiều hi sinh vì chúng con như mẹ, có ai trằn trọc lo cho con từng bữa cơm, từng chiếc áo con mang như mẹ. Mẹ ơi! Với con mẹ như vì sao sáng, hiền dịu soi rọi cuộc đời con, rọi chiếu tâm hồn thơ ngây và tĩnh lặng của con. Suốt một đời mẹ hi sinh thầm lặng bao dung cho con. Bao nhiêu lần con ốm là là bấy nhiêu lần mẹ rơi nước mắt vì con. Bao nhiêu lần con phạm lỗi là bấy nhiêu lần mẹ thất vọng, khóc vì con. Bao nhiêu lần con vấp ngã là bấy nhiêu lần mẹ nâng đỡ, bảo ban con. Mẹ à, con thấy mình may mắn biết bao khi có mẹ. Tất cả đều từ mẹ, đều nhờ mẹ mà có con của ngày hôm nay.
Tham khảo văn ❤️️ Biểu Cảm Về Mẹ ❤️️ 17 Bài Văn Biểu Cảm Hay Nhất
Tuổi thơ của tôi là những năm tháng gắn bó cùng ông nội. Đối với tôi, ông chính là người thân mà tôi yêu thương và kính trọng nhất trong cuộc đời của mình.
Ông nội của tôi năm nay đã bảy mươi tư tuổi. Nhưng ông vẫn còn minh mẫn lắm. Ông có khuôn mặt phúc hậu, hiền từ. Chòm râu dài, bạc phơ. Đôi mắt sáng như vì sao trên bầu trời. Đôi bàn tay của ông đã có nhiều nếp nhăn.
Trước khi nghỉ hưu, ông tôi là một cán bộ nhà nước. Ông rất yêu thương con cháu. Nhưng ông cũng rất nghiêm khắc khi chúng tôi mắc lỗi. Tuy tuổi đã cao nhưng ông vẫn còn rất khỏe. Mọi người đều rất yêu quý, kính trọng ông.
Khi còn nhỏ, bố mẹ thường bận công việc. Ông nội là đã chăm sóc tôi. Ngày đầu tiên đi học, ông cũng là người đưa tôi đến trường. Có quà bánh, ông đều để dành cho tôi. Tình yêu thương của ông dành cho tôi thật lớn lao.
Những kỉ niệm về ông nội cũng thật đáng trân trọng. Hồi còn bé, tôi được ông chở đi chơi trên chiếc xe đạp cũ. Thỉnh thoảng, tôi lại được nghe ông kể chuyện ngày xưa. Hay cả những lúc theo ông vào vườn cây chăm sóc cây cối. Ông đã dạy cho tôi cách chăm sóc cây cối thật cẩn thận. Nhờ có ông, tôi đã biết sống yêu thương mọi vật xung quanh hơn.
Thời gian trôi qua, sức khỏe của ông ngày càng yếu đi. Bởi vậy mà ông cần có sự quan tâm, chăm sóc của con cháu nhiều hơn. Mỗi khi có thời gian rảnh, tôi sẽ dành thời gian trò chuyện với ông. Có khi, hai ông cháu lại cùng nhau chơi cờ, hay đi câu cá. Những lúc đó, tôi cảm thấy rất vui vẻ, hạnh phúc.
Ông nội chính là điểm tựa tinh thần vững chắc của cả gia đình. Tôi luôn dành cho ông sự kính trọng. Mong rằng ông sẽ luôn khỏe mạnh để sống thật lâu bên con cháu.
Siêu hot 📌Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí📌 Viettel, Mobifone, Vinaphone
Phân Tích Một Khúc Ca Xuân ❤️7+ Bài Văn Cảm Nhận Ngắn Hay
Phân Tích Một Khúc Ca Xuân ❤️ 7+ Bài Văn Cảm Nhận Ngắn Hay ✅ Tham Khảo Văn Mẫu Liên Hệ Bài Thơ Một Khúc Ca Xuân Đặc Sắc Nhất.
1. Mở bài
Hưởng thụ và cống hiến là hai quan niệm sống, hai thái độ xử thế, hai vấn đề được mọi người quan tâm đến nhất trong xã hội hiện nay – một xã hội đang từng bước chuyển mình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những bước đầu còn nhiều khó khăn phức tạp. Trong tình hình ấy, ta cần phải chọn cách sống nào trong hai lối sống vừa nói. Nỗi băn khoăn này của chúng ta đã được nhà thơ Tố Hữu giải đáp trong bài Một khúc ca xuân
– Dẫn đoạn thơ.
2. Thân bài
a) Giải thích ý nghĩa của đoạn thơ
Nếu là: Cách nói giả định.
Con chim, chiếc lá: Những sinh linh bé nhỏ trong cõi đời. Tuy nhỏ bé như con chim, chiếc lá, nhưng một khi đã hiện diện trên đời, thì vẫn có trách nhiệm với đời, nghĩa là: “con chim phải hót, chiếc lá phải xanh”.
Từ đó, suy ra con người cũng vậy một khi đã sống đã “vay” nhiều của xã hội thì phải biết “trả”. “Lẽ nào vay mà không có trả” là như vậy. Biết trả nợ xã hội đó là trách nhiệm của con người ở đời “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Đúng là con người sống trong xã hội đâu phải là chỉ biết hưởng thụ mà còn phải biết cống hiến.
b) Khẳng định quan niệm sống trong đoạn thơ của Tố Hữu là hoàn toàn xác đáng
Quan niệm sống phải biết cống hiến của nhà thơ thể hiện một lẽ sống cao đẹp, vị tha của thanh niên thời đại Bác Hồ hiện nay.
Là một thành viên sống trong cộng đồng xã hội, mỗi con người đều phải hòa đồng với nhau, sống phải có trách nhiệm với nhau. Vay nhiều của xã hội, ai cũng vậy, phải ra sức trả món nợ ấy cho xã hội.
Để trang trải được món nợ đã vay ấy của xã hội, chúng ta phải biết cống hiến hết sức lực của mình cho đời, cho người.
Nếu mọi người đều như vậy, đất nước ta nhất định sẽ tiến lên văn minh, công bằng và giàu mạnh; xã hội nhất định sẽ tốt đẹp.
c) Bàn luận mở rộng
Phê phán: Những ai chỉ biết hưởng thụ, vị kỉ, vụ lợi chỉ biết “vay” mà không biết “trả”, sống ở đời mà thiếu tinh thần trách nhiệm đối với cuộc đời. Những kẻ này chỉ cản trở, gây khó khăn cho cả xã hội trên bước đường đi lên mà thôi.
Trong tình hình hiện nay, mỗi một con người đểu phải xác định đúng việc rèn luyện tu dưỡng bản thân mình, luôn luôn biết sống vì mọi người, thấy được “sống là cho”đó là điều hạnh phúc.
Là học sinh, ngay từ khi còn trên ghế nhà trường, chúng ta cần có ý thức sống vì mọi người, sống là cống hiến.
3. Kết bài
Bốn câu thơ của Tố Hữu là một bài học, một lời khuyên sâu xa thấm thìa đầy bổ ích đối với tất cả mọi người trong cuộc sống hôm nay.
Nhà thơ nêu lên một quan niệm sống cao đẹp mà mọi người, mọi giới, mọi lứa tuổi đểu nên noi theo.
Để cho đất nước tiến triển, xã hội văn minh, tốt đẹp mỗi người trong chúng ta đều cần phải biết sống là cống hiến, “có vay và có trả”, “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
Tố Hữu là một nhà thơ cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp cách mạng ngay từ tuổi trẻ, vì say sưa với lí tưởng cách mạng mà nhiều lần ông đã vào tù, ra khám. Đến khi lớn tuổi, ông trình bày một quan niệm sống qua mấy câu thơ như sau:
Chúng ta hãy thử bàn bạc những ý thơ này hầu rút ra một bài học quý về lẽ sống.
Đoạn thơ sử dụng kiểu câu điều kiện – kết quả chứa đựng một lập luận thật sắc bén của tác giả: Nếu làm con chim, chiếc lá – Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh. Những hình ảnh con chim, chiếc lá tượng trưng cho các vật hết sức bé nhỏ trong thiên nhiên. Tuy bé nhỏ nhưng chúng ta đã cống hiến những gì tốt đẹp nhất cho vũ trụ ấy: con chim cống hiến tiếng hót, chiếc lá cho màu xanh. Những hình ảnh ấy là tấm gương soi cho con người về cách sống:
Suy cho kĩ, mỗi người chúng ta đã vay rất nhiều. Vay tiền thì trả lại bằng tiền. Nhưng có những thứ ta vay mà rất khó trả, như Nguyễn Công Trứ đã viết:
Lúc lọt lòng, mẹ cho ta thân thể, cha cho ta một dòng máu. Nhưng có phải thân thể ta duy nhất là của cha mẹ ta cho đâu? Nếu không có tổ tiên, bao anh hùng liệt sĩ đã đổ máu xương để xây dựng và giữ gìn đất nước, bảo vệ quê hương, chắc gì ta đã có mặt trên đời này? Trong lòng mẹ, mẹ cho ta dòng sữa ngọt, cha cho manh, áo lành. Rời mẹ cha, ta ra công viên chơi đùa là đã chịu ơn của các người thợ xây dựng, trồng cây.
Đến trường, ta lại chịu ơn của thầy cô. Vào bệnh viện, ta khỏi bệnh nhờ các y tá, bác sĩ… Nơi nơi trên đất nước này, bầu trời này, bao nhiêu người đã từng đổ mồ hôi, nước mắt và máu xương để mở đất, xây cầu, làm đường. Đó là tất cả những gì ta đã vay khi ta sống trong đời:
Như thế tác giả đã khẳng định việc vay, trả là điều tất yếu, Quan niệm sống là cho mà Tố Hữu tổng kết đã là cách sống của tiền nhân ta. Mẹ Âu Cơ cho ta một dòng máu khỏe mạnh “khôi ngô tuấn tú, sức mạnh như thần”, rồi Lạc Long Quân dạy dân trồng trọt, mưu sinh. Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo và bao nhiêu nghĩa sĩ Lam Sơn, đoàn quân Tây Sơn cho đến bộ đội Trường Sơn đã chiến đấu giữ nước… đã hi sinh máu xương để cho chúng ta đất trời tự do, độc lập.
Do đó, nhiệm vụ trả là nhiệm vụ của chúng ta. Đây là lẽ công bằng và hợp lí. Trả không có nghĩa là chỉ trả cho người mà ta đã vay mà phải trả cho đời. Hiểu theo cách khác là ta phải biết cống hiến khả năng, sức lực của mình cho xã hội, góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp chung của đất nước, phải hiểu việc cống hiến là trách nhiệm của mỗi con người trong xã hội. Nếu ai cũng nhận thức rằng Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình, thì mọi người sẽ sống tốt đẹp biết bao, tình tương thân tương ái sẽ thắm thiết biết dường nào.
Nhưng bên cạnh những người biết sống đẹp ấy, có những kẻ sống thật ích kỉ, chỉ biết hưởng thụ mà không biết phục vụ cho đời. Họ không hiểu được rằng lợi ích cá nhân phải gắn liền với lợi ích tập thể.
Trong việc xây dựng đất nước hiện nay, mọi người cần đồng lòng, hiệp sức, cùng công hiến khả năng mình cho xã hội. Những kẻ chỉ đòi hỏi hưởng thụ mà thiếu trách nhiệm đối với đời chính là cản bước tiến của xã hội. Do đó ta cần nghiêm khắc lên án lối sống cá nhân ích kỉ xấu xa này
Đồng thời ta cũng xác định cho mình một thái độ sống đúng đắn: phấn đấu rèn luyện bản thân, hiểu được ý nghĩa sống là cho đối với xã hội, với đất nước, thấy được công hiến là vinh dự, niềm vui của con người. Cho nên ngay từ lúc còn là học sinh, ta cần phải tập sống có ý thức “mình vì mọi người”, để sau này trở thành người hữu dụng, xứng đáng với bao thế hệ đi trước.
Nhà thơ Tố Hữu đã viết những câu thơ thật đẹp, thật sâu sắc để nhắc nhở chúng ta một lẽ sống cao quý. Đó là cách sống của người thanh niên mới trong xã hội mới hôm nay.
Tham khảo mẫu 🌸 Phân Tích Bài Thơ Mùa Xuân Xanh 🌸 dành cho bạn!
Được sinh ra trong đời sống, được cảm nhận tình yêu bao la từ cha mẹ, được thừa hưởng những giá trị mà tạo hoá ban tặng. Đó là diễm phúc của một con người bình thường. Quan trọng như không khí ta thở hằng ngày, thiêng liêng như tình mẫu tử, tình phụ tử ta có trong từng giây phút, mỗi món quà mà ta nhận được từ tạo hoá khi xuất hiện trên thế gian này đều gắn liền với một bổn phận, một trách nhiệm. Ý thức được điều này, trong bài “Một khúc ca xuân” nhà thơ Tố Hữu có viết:
Bài thơ không chỉ dừng lại ở một cách sống mà cao cả hơn nó còn mở ra một quan niệm nhân sinh tích cực, hay đúng hơn là một lí tưởng sống cần có của mỗi người trong xã hội.
Nhà thơ Tố Hữu mượn hai thực thể chiếc lá và tiếng chim để minh hoạ cho quan niệm của mình. Tạo hoá đã tạo ra loài chim và ban cho chúng giọng hót tuyệt vời thì cũng có nghĩa rằng đã là chim thì phải hót và tương tự như vậy, chiếc lá non thì phải xanh.
Chắc hẳn ai đã từng đọc tác phẩm nổi tiếng “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” đều không thể quên hình ảnh chú chim đã dùng hết sức mình để lao vào bụi mận gai, chú chim đã bị một cây gai xuyên vào lồng ngưc nhưng chú vần cất lên tiếng hót cuối cùng – tiếng hót mà đến cả hoạ mi, sơn ca cũng phải ghen tị, tiếng hót mà cả Thượng đế trên cao nghe cũng phải mỉm cười. Và như thế đủ cho ta thấy rằng hạnh phúc nhất, sung sướng nhất chính là giây phút được cống hiến cho đời.
Còn chiếc lá kia sẽ là gì hôm nay nếu thiên nhiên không ban cho nguồn dưỡng khí để hô hấp và quang hợp. Sẽ là gì bây giờ nếu con người nhẫn tâm ngắt bỏ nó đi. Và như vậy, một khi đã được tồn tại trên cõi đời này thì lá phải có nhiệm vụ đem màu xanh tràn đầy nhựa sống ấy tô điếm cho bầu trời, cảnh vật hay đem lại bóng râm, dưỡng khí cho muôn loài.
Vậy, là con người – là kẻ đứng đầu của muôn loài, là loài động vật cao cấp nhất có tư duy, suy nghĩ, chúng ta đă làm gì để cống hiến cho xã hội?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình
Được tạo nên từ tình yêu thương vô bờ bến của cha và mẹ, được lớn lên, được bao bọc giữa vòng tay nhân ái của cộng đồng, rộng hơn được hít thở nguồn dường khí hằng ngày, được sống trong một đất nước hoà bình – đó là gì nếu không phải là vay mượn từ cuộc sống, từ xã hội?
Ngày nay, được học tập, được sinh hoạt giữa đất trời bình yên là gì nếu không phải mang trong mình một niềm tri ân với những thế hệ đi trước đã đánh đổi cả mùa xuân của tuổi trẻ và thậm chí là xương máu, là nước mắt để có được một cuộc sống độc lập tự do như ngày nay.
Vì vậy, đã là Người hẳn mang trong mình những trách nhiệm thiêng liêng. Đơn giản như phải học tập thật tốt để trả ơn cho cha mẹ, thầy cô đã hết lòng vì mình. Cao cả hơn như cống hiến sức lực, trí tuệ của mình vào sư nghiệp chung của giang sơn gấm vóc này. Đó chính là trách nhiệm, là nghĩa vụ, bổn phận của mỗi con người. Hay đúng hơn nói theo Phạm Ngũ Lão: Đó là món nợ phải trả cho đời.
Nhìn lại ngày xưa để ngẫm lại ngày nay. Chúng ta phải làm gì đế không hổ danh là thế hệ trẻ, thế hệ thanh niên, thế hệ rường cột của nước nhà. Nhỏ nhặt như giún đỡ mọi người xung quanh, sống hết mình, sống tích cực, lớn lao hơn là đưa đất nước mình sánh vai với các cường quốc, năm châu. Để làm được điều đó hãy noi gương Lê Bá Khánh Trình, Lê Tự Quốc Thắng hay giản dị hơn là sống tốt để trở thành một công dân có ích cho cộng đồng.
Nếu như ai cũng hiểu rằng: “Lẽ nào vay mà không trả; Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”, thì mọi người sẽ sống đẹp biết bao, tình tương thân, tương ái sẽ thắm thiết và tươi đẹp biết nhường nào!
Một Khúc Ca Xuân là một sáng tác của Tố Hữu, trong nhiều tài liệu nó còn có tên gọi khác là Một khúc ca. Đây là một bài thơ được viết năm 1977. Với bài thơ này tác giả đã thể hiện những giá trị của cuộc sống cũng như khao khát được dâng hiến cho đời dẫu đó là những diều nhỏ bé. Cũng bởi tất cả vạn vật trong thế giới đều có một cuộc sống chính vì vậy con người cũng phải sống làm sao cho đáng sống.
Tố Hữu là một nhà thơ đã hết mình cống hiến cho sự nghiệp cách mạng từ ngày còn trẻ. Và ông cũng đã nhiều lần vào tù ra khám. Bên cạnh đó ông cũng đã để lại rất nhiều bài thơ hay nổi tiếng cho đời. Một khúc ca xuân là một minh chứng cho tài năng cũng là nhân cách của một nhà thơ lớn.
Một khúc ca xuân đề cập tới một cách sống cao cả. Với nhà thơ được sinh ra và cảm nhận tình yêu thương bao la của cha mẹ, được thừa hưởng các giá trị mà tạo hóa ban tặng đó chính là một sự may mắn. Tuy nhiên tình mẫu tử, tình phụ tử hay bất cứ các món quà mà ta có đều gắn liền với các bổn phận và trách nhiệm. Đó cũng chính là lý do trong Một khúc ca xuân nhà thơ có viết:
Đó cũng như những hình ảnh con chim, chiếc lá trong tự nhiên. Đã là chim thì phải hót và đã là lá thì phải xanh. Tuy đó đều là những điều nhỏ bé nhưng chúng đã cống hiến cho cuộc sống này những điều tốt đẹp nhất, Là con chim thì cất tiếng hót cho đời, là lá thì cho màu xanh… Đó cũng chính là giá trị và là tấm gương về những nhân cách sống cao cả.
Ở bài thơ Một khúc ca xuân Tố Hữu đã mượn hình ảnh chim và lá cây để nói về triết lý sống. Nếu suy nghĩ thật kỹ thì mỗi người chúng ta đã vay rất nhiều. Vay tiền thì dùng tiền để trả tuy nhiên không phải cái gì cũng có thể dùng tiền được.
Chẳng han như lúc lọt lòng mẹ cho ta thân tể, cha cho ta dòng máu. Nhưng đó cũng không phải là tất cả bởi thân thế đó cũng chính là của tổ tiên, bao anh hùng liệt sĩ đã hy sinh. Đó là sự hy sinh để giữ gìn đất nước bảo vệ quê hương. Bởi nếu không có họ liệu làm sao có chúng ta trên đời. Và tất cả những gì trên đất nước này, bầu trời này cũng chính là bao người đã đổ mồ hôi, nước mắt… Đó là tất cả những gì chúng ta đã vay khi ta còn sống trên đời.
Việc vay là tất yếu, và đó cũng chính là triết lý mà chính tác giả muốn gửi gắm. Là mẹ Âu Cơ đã cho ta dòng máu khỏe mạnh, là Lạc Long Quân dạy ta trồng trọt. đến biết bao người đã hy sinh xương máu mình cho nền độc lập hôm nay.
Bởi Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình nên nhiệm vụ trả là nhiệm vụ mà ta cần phải làm. Đó cũng chính là lẽ công bằng và hợp lý. Không nên hiểu đó là trả cho chính người đã cho ta, mà trả ở đây có thể hiểu là trả cho đời, cho thế hệ mai sau. Hay nói một cách khác chính là cần phải biết cống hiến cho xã hội dẫu đó là một phần sức lực nhỏ bé.
Còn có một bộ phận người chỉ biết hưởng thụ mà không biết chia sẻ và phục vụ cho đời. Đó cũng chính là những người không hiểu được rằng cần phải gắn lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể. Nhất là đối với những người trẻ cần phải tăng cường cống hiến cho đát nước, xã hội. Và cần phải có ý thức sống vì mọi người để trở thành người có ích. Đó chính là lý tưởng, cách sống cao đẹp mà Tố Hữu muốn gửi gắm qua “Một khúc ca xuân”.
Một trong những bài văn phân tích bài thơ “Một khúc ca xuân” xuất sắc nhất, mời bạn cùng xem:
“Cái quý giá nhất của con người là đời sống. Vì đời người chỉ sống có một lần”. Vậy phải sống sao cho “khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn?”. Để trả lời với tất cả chúng ta câu hỏi đó, trong bài “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu đã tâm sự bằng những câu thơ giản dị mà rất sâu sắc:
“Nếu là” là cách nói giả định. ”Con chim”, ”chiếc lá” là những sinh linh nhỏ bé trong cõi đời. Tuy nhỏ bé nhưng khi đã hiện diện trên đời thì phải có trách nhiệm với đời. Nghĩa là “con chim phải hót, chiếc lá phải xanh”. Từ đó suy ra con người cũng vậy một khi đã sống, đã “vay” nhiều của xã hội thì phải biết “trả”. “Lẽ nào vay mà không có trả” là như vậy. Biết trả nợ xã hội đó là trách nhiệm của con người ở đời “sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Con người trong xã hội đâu phải chỉ là hưởng thụ mà còn phải biết cống hiến.
Bằng hình ảnh:
Tố Hữu muốn khẳng định trước hết sống phải có ích cho đời. Là con chim không chỉ biết kêu mà cao hơn nữa phải biết cất tiếng hót ca lanh lảnh hót cho đời, tạo nên những bản nhạc rộn rã tươi vui cho đất trời. Cũng như vậy, đã là chiếc lá thì chiếc lá phải xanh tươi đưa lại sức sống cho cây cối, làm mát mắt cho đời và hút nhiều thán khí, nhả ra nhiều ô-xi đem lại sự sống cho con người và muôn loài vật trên trái đất này. Ngay cả những sinh vật hết sức nhỏ bé như thế, mà chúng còn biết hiến dâng những gì tốt đẹp nhất, có ý nghĩa nhất giúp ích cho đời.
Quả thật như vậy, con người chúng ta phải có lẽ sống đẹp. Mà sống đẹp là có “vay” có “trả” và cao hơn nữa sống là cống hiến, hy sinh cho đời. Muốn sống cho xứng đáng tên gọi thiêng liêng cao quý của mình. Mỗi chúng ta phải có lẽ sống đẹp. Nghĩa là phải biết ứng xử một cách đẹp đẽ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng, với quê hương đất nước.
Nói như Tố Hữu, lẽ sống đẹp là lẽ sống có “vay” thì có “trả”, có “nhận”, thì phải có “cho”, phải cống hiến hy sinh sức lực, tâm trí, thậm chí là cả sự sống của mình cho đời, để đời ngày một “đàng hoàng”, “tươi đẹp hơn”.
Mỗi chúng ta giờ đây được sống trên đời, hít thở khí trời, đứng thẳng hai chân kiêu hãnh làm người, chúng ta đã được nhận quá nhiều từ công sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ, ông bà tổ tiên, từ tình yêu thương đùm bọc của bà con, đồng bào, từ sự hy sinh của biết bao anh hùng liệt sĩ đã đổ máu xương để xây dựng quê hương và giữ gìn đất nước thanh bình tươi đẹp như hôm nay…
Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đã được thừa hưởng biết bao thành quả của người đi trước để lại và người khác đem cho. Như thế là chúng ta đã “vay”, đã “mắc nợ” người thân, nhân dân, đất nước nhiều rồi! Là con người vốn giàu nhân cách và lòng tự trọng, chúng ta phải “trả”, hơn nữa phải “cho” nhiều hơn những gì mà chúng ta đã “vay”, đã “nhận”. Đó là hành động vừa đúng với nhân tâm, vừa hợp với đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”.
Thực tế chứng minh rằng trong sự nghiệp xây dựng chính quyền và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, ta đã có biết bao con người sống rất đẹp cho đạo lý, lẽ sống “trả”, “vay” đó, như Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Lý Tử Trọng, Đặng Thùy Trâm,… Họ sẵn sàng “cho” cả cuộc đời, sẵn sàng đổ máu mình cho Tổ quốc đơm hoa Độc lập, kết trái tự do. Noi theo những tấm gương cao đẹp đó, giờ đây, những người đang sống lại tiếp tục hy sinh, cống hiến tâm trí và sức lực của mình để làm giàu cho Tổ quốc.
Hàng ngày, hàng giờ trên đất nước ta có biết bao con người đã “cho” đi những giọt mồ hôi thấm đẫm tâm não để “nhận” lại những công trình khoa học, những sản phẩm lao động; hoặc “cho” đi những giọt máu đào nhân đạo để cho người bệnh có nụ cười ngọt ngào, vì sự sống được hồi sinh; hoặc “cho” đi những đồng tiền mà mình tiết kiệm được để cho những người nghèo, cơ nhỡ có những điều kiện vật chất tối thiểu để hướng cuộc đời về phía tương lai.
Quan niệm sống phải biết cống hiến của nhà thơ thể hiện một lẽ sống cao đẹp, vị tha của thanh niên trong thời đại Bác Hồ hiện nay. Là một thành viên sống trong cộng đồng xã hội, mỗi con người đều phải biết sống với nhau, sống có trách nhiệm với nhau. Vay nhiều của xã hội, ai cũng vậy đều phải ra sức trả món nợ ấy cho xã hội. Để trang trải món nợ đã vay ấy của xã hội, chúng ta phải biết cống hiến hết sức lực của mình Nếu mọi người đều như vậy, đất nước ta nhất định sẽ tiến lên văn minh, công bằng và giàu mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh biết bao con người ngày đêm miệt mài học tập, lao động, cống hiến tài năng sức lực cho xã hội, đất nước, thì có một bộ phận không nhỏ của thanh niên lại chỉ biết “vay” và “nhận”, thậm chí còn “nhận” quá nhiều mà không chịu “trả”. Họ đua đòi theo con đường ăn chơi hưởng lạc: đến với vũ trường, tìm đến “nàng tiên nâu”, “cái chết trắng”, để tiêu vèo hết cuộc đời trong chốc lát, vi những thú vui vô nghĩa, mà không hề biết hổ thẹn. Những người có lối sống ích kỷ và bất nhân, vô ơn bạc nghĩa ấy thật đáng phê phán, lên án.
Trong tình hình hiện nay, mỗi một con người đều phải xác định đúng việc rèn luyện tu dưỡng của bản thân mình, luôn luôn biết sống vì mọi người, thấy được “sống là cho” đó là điều hạnh phúc. Là học sinh, ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường cần phải có ý thức sống vì mọi người, sống là cống hiến.
Những câu thơ giản dị của Tố Hữu đã thể hiện một lẽ sống biết “vay” và “trả”; “cho” và “nhận”, “cống hiến” và “thụ hưởng” đúng lương tâm và đạo lí rất đẹp của người Việt Nam xưa nay. Những ai chỉ biết hưởng thụ, vị kỉ, vụ lợi, chỉ biết “vay” mà không biết “trả”, sống ở trên đời mà thiếu tinh thần trách nhiệm đối với cuộc đời. Hiểu được lẽ sống đó, mỗi chúng ta, ở từng cương vị cuộc sống khác nhau, hãy cống hiến hết sức mình, hãy “cho” thật nhiều và gắng làm “Một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời” như nhà thơ Thanh Hải đã viết:
Văn mẫu 🌸 Liên Hệ Câu Cá Mùa Thu 🌸 đặc sắc!
Nhà thơ Thanh Hải hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp cứu nước. Trong thời kỳ chống Mỹ, ông lại quê hương mình là mảnh đất Huế để hoạt động và trở thành một trong những cây bút có sức ảnh hưởng đến văn nghệ cách mạng miền Nam thời kỳ đầu.
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác trước sự ra đi của tác giả không lâu. Bài thơ đã thể hiện được tình yêu cuộc sống thiết tha và khát vọng sống cao đẹp của nhà thơ. Trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, nhà thơ Thanh Hải đã bộc lộ những khát vọng sống cống hiến của mình một cách sâu sắc và nhân văn qua khổ thơ thứ 4 và thứ 5.
Người đọc có thể thấy được điểm tương đồng với nội dung của bài thơ “Một khúc ca xuân” của nhà thơ Tố Hữu với khổ thơ bốn, năm trong “Mùa xuân nho nhỏ”. Đó đều là những thông điệp về sự cho đi, về sự cống hiến đẹp đẽ của con người trong cuộc sống.
Tác giả đã lấy hình ảnh của con chim và chiếc lá để truyền tải thông điệp đầy nhân văn và sâu sắc này. Trong cuộc sống, bổn phận của mỗi cá nhân cũng giống như chim phải hót, lá phải xanh. Chúng ta phải sống cống hiến và lao động hết mình.
Đồng thời chúng ta cũng cần cho đi yêu thương để nhận lại được hạnh phúc và những điều tốt đẹp cho cuộc sống. Chính sự cho đi làm cho chúng ta trở nên hạnh phúc và sống ý nghĩa hơn.
Ở khổ thơ thứ 4 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, cấu trúc điệp từ “Ta làm” đã cho thấy khát vọng được cống hiến cho đời của nhà thơ. Cách dùng đại từ xưng hô “ta” cho thấy một sự khát vọng cá nhân nằm trong sâu thẳm trong tâm trí nhà thơ Thanh Hải. Có lẽ, từ tận sâu trong trái tim của mình, nhà thơ thực sự mong ước bản thân được cống hiến và đóng góp vào sự nghiệp chung của đất nước, làm đẹp cho cuộc đời. Những hình ảnh “con chim hót, một cành hoa, một nốt trầm” là những hình ảnh ẩn dụ cho những điều đóng góp làm đẹp cho đời của tác giả.
Chao ôi, trong sâu thẳm tâm hồn của mình, Thanh Hải thực sự mình có thể đóng góp cho cuộc đời chung, dù chỉ là một con chim hót đóng góp tiếng hót cho đời, một cành hoa cho hương sắc hay một nốt trầm xao xuyến vào bản hòa ca chung của đất nước. Những dòng thơ cho thấy khát vọng cống hiến của nhà thơ, dù chỉ là những đóng góp nhỏ bé nhưng sâu thẳm trong nhà thơ, những sự cống hiến ấy là đóng góp vào cuộc đời chung.
Theo em, đây là quan điểm sống vô cùng nhân văn và giàu ý nghĩa. Mỗi cá nhân đóng góp vào cuộc đời chung để làm cho cuộc đời thêm tươi đẹp và hạnh phúc, tạo nền tảng hạnh phúc bền lâu cho cuộc đời và con người.
Tiếp theo, ở khổ thơ thứ 5, hình ảnh mùa xuân nho nhỏ ở đây là hình ảnh ẩn dụ cho những khát vọng, việc làm cống hiến cho cuộc sống, cho đất nước. Theo em, đây là hình tượng nghệ thuật độc đáo và mang đầy giá trị nhân văn. Mùa xuân nho nhỏ chính là những khát vọng được cống hiến, làm đẹp cho đời của mỗi cá nhân. Tư tưởng ấy thực sự là tư tưởng cao đẹp và mang đầy tính nhân văn của con người.
Con người sống trên đời đều cần một lý tưởng sống cho mình. Và lý tưởng sống cao đẹp nhất đó là lý tưởng sống cống hiến, sống cho đi mà không cần báo đáp, sống để tô điểm cho đời, sống để cống hiến và xây dựng cộng đồng ngày một tốt đẹp hơn.
Nếu mỗi người đều có thái độ sống đẹp và giàu triết lý như vậy thì cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn rất nhiều. Từ “lặng lẽ” trong bài thơ là thái độ cống hiến và xây dựng cuộc sống một cách âm thầm, lặng lẽ, không cần ai biết đến.
Tư tưởng sống cống hiến của nhà thơ Thanh Hải còn được thể hiện qua việc bất chấp tuổi tác “Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc“. Dù ở độ tuổi nào thì con người sống trên đời cũng cần cống hiến vào cuộc sống chung, góp mình vào công cuộc chuyển mình và dựng xây đất nước.
Đây là khổ thơ mà em thích nhất bởi vì nó thể hiện tư tưởng sống cao đẹp và đầy tính nhân văn, mỗi người, mỗi cá nhân đều có thể tạo nên 1 mùa xuân nho nhỏ để góp phần xây dựng nên mùa xuân trường tồn mãi mãi của đất nước giàu đẹp và xã hội phồn vinh.
Hai bài thơ đều giống nhau ở thông điệp sống cống hiến nhân văn cao đẹp cần có ở con người ở đời. Chính những điều mà chúng ta cho đi sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên ý nghĩa và tốt đẹp hơn. Hai bài thơ đều sử dụng những hình ảnh thiên nhiên như: lá, chim, hoa, nốt trầm để truyền tải thông điệp tốt đẹp đó.
Về điểm khác nhau, bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là lời tự khẳng định của chính bản thân tác giả về thái độ sống cống hiến ở đời. Còn bài thơ “Một khúc ca xuân”, lời bài thơ như một lời thầm thì sâu sắc của tác giả về lẽ sống tốt đẹp của con người.
Tóm lại, hai khổ thơ bốn và năm bài thơ Mùa xuân nho nhỏ và bài thơ “Một khúc ca xuân” đã truyền tải thông điệp đến người đọc về thái độ sống cống hiến và sống có ý nghĩa cho đời. Mỗi cá nhân đều đóng góp nên sự phát triển chung của toàn thể xã hội và cộng đồng.
Một khúc ca được in trong tập “Một tiếng đờn” được Tố Hữu sáng tác năm 1977, 2 năm sau hòa bình, thống nhất đất nước. Bài thơ khá dài giống như một bản trường ca tổng kết về những năm tháng gian khổ quân dân ta đã trải qua, qua đó thể hiện những quan điểm sống cao đẹp, ý nghĩa của tác giả.
Câu thơ mở đầu giống như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Từ vâng xuất hiện mang tính chất giống như cuộc đối thoại giả tưởng của tác giả. Dường như anh đang nói với chính lòng mình, về những gì đã xảy ra, về một quá khứ đầy hào hùng, đau thương của dân tộc. Anh hiểu tất cả những gì mà cha ông đã ngã xuống, những người đồng đội, đồng chí, những người anh, người chị đã hy sinh để có được thắng lợi như ngày hôm nay. Vì thế anh càng trân trọng cái giá của hòa bình, độc lập, với thành quả mà cha ông ta đã hy sinh.
Hình ảnh ẩn dụ qua đôi bàn tay đã cho tất cả “Cả bàn tay của những mẹ già. Bàn tay đã cho ta, tất cả” Gợi đến những sự hy sinh thầm lặng của cả những người mẹ, những người vợ, những người phụ nữ nơi hậu phương. Tất cả đều đang góp sức cho hòa bình, tự do của dân tộc và thế hệ những người nghệ sĩ như Tố Hữu rất trân trọng những thành quả ấy. Bàn tay cho ta tất cả, nhất là những người mẹ anh hùng khiến người đọc liên tưởng đến những vần thơ xúc động trong bài thơ Mẹ Tơm:
Chính từ những suy tưởng ở trên nhà thơ đã nâng lên thành quan điểm sống cao đẹp cho mình ở những câu thơ cuối. Tố Hữu đặt ra giả thiết nếu là con chim, là chiếc lá thì con chim sẽ phải cất tiếng hót để làm đẹp cho đời, chiếc lá sẽ phải xanh để nuôi hoa trái thơm ngọt, nếu đã vay ai gì đó thì chắc chắn phải trả lại.
Đây là những quy luật hết sức tự nhiên của con người. Là lẽ hiển nhiên của cuộc sống. Mượn hình ảnh mang tính chất hiển nhiên nhà thơ nâng lên thành một quan điểm sống rất ý nghĩa: Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?
Đó là một quan niệm sống rất đẹp của thế hệ những nhà thơ, nhà văn trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Nhà thơ mặc định rằng đã là sống trên cõi đời này chỉ nên dành cho, cống hiến tất cả và đừng đòi hỏi nhận lại điều gì. Không riêng Tố Hữu trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải cũng viết
Chúng ta thấy điểm tương đồng về quan điểm sống của các tác giả trong những bài thơ trên. Đó là ý thức cống hiến một cách tự nguyện, chân thành và không đòi hỏi gì của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến. Quan điểm sống đó không chỉ đúng với riêng thời kỳ đó – khi đất nước còn đang gặp vô vàn khó khăn. Ngay cả thời điểm bây giờ, trong xu thế hội nhập cũng rất quan trọng.
Nó nhắc nhở mỗi thế hệ thanh niên chúng ta nên lựa chọn cho mình lối sống cống hiến, làm đẹp cho cuộc đời.
Soi chiếu vào cuộc đời hoạt động không ngừng nghỉ của nhà thơ Tố Hữu. Vừa là một cán bộ cách mạng, vừa là một nhà thơ, chúng ta thấy được ông đã sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình suốt cả cuộc đời. Đó là vẻ đẹp đáng quý, đáng trân trọng của nhà thơ- một điển hình cho thế hệ tuổi trẻ tuyệt đẹp trong những năm kháng chiến.
Thơ hay không chỉ giàu cảm xúc mà còn lấp lánh chất trí tuệ, lí trí, mang hàm nghĩa sâu xa. Tôi rất thích khi đọc đoạn thơ sau đây, rút trong bài Một khúc ca xuân của Tố Hữu viết vào tháng 12 năm 1977:
Đoạn thơ đã gợi lên trong tâm trí tôi bao suy nghĩ, bao điều lí thú. Tác giả đã nêu lên một quan niệm sống tích cực, sống đẹp trong mối quan hệ nhân sinh: vay và trả, cho và nhận giữa cộng đồng đối với mọi người, nhất là thế hệ trẻ.
Đoạn thơ đẹp, đẹp giản dị, đẹp hồn nhiên. Con chim và chiếc lá vừa là biểu tượng cho sự sống, vừa là hình tượng của ngôn ngữ thi ca: “Chim phải hót, chiếc lá phải xanh”. Chim hót vì sống theo bản năng, được sống, được bay lượn trong ánh sáng và bầu trời tự do. “Lá phải xanh”, lá được nuôi dưỡng bàng nước, bằng mầu mỡ của đất, bằng khí trời và ánh sáng. Được sống trong tự nhiên nên “chim phải hót, chiếc lá phải xanh”. Đó là quy luật của tự nhiên, quy luật của sự sống muôn đời và vĩnh hằng. Màu xanh của lá, tiếng hót của chim trời còn là vẻ đẹp của thiên nhiên, đem lại vẻ đẹp kì diệu của sự sống.
Từ chim hót, lá xanh, nhà thơ nói đến vay và trả, cho và nhận, đó là quy luật của cuộc sống xã hội, của con người. Nói một cách khác, là quan niệm sống, đạo lí sống.
“Vay mà không trả là vong ân bội nghĩa, đó là cách hành xử của những kẻ “ăn xổi ở thì”, của loại người bất nhân bất nghĩa. Hai tiếng “lẽ nào” là một lời khẽ nhắc: không nên làm như thế, không được ứng xử như thế.
Có vay và có trả là đúng đạo lí. Vay và trả mang hàm nghĩa chịu ơn, mang ơn và đền ơn đáp nghĩa: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguổn”, “Ai ơi. bưng bát cơm đầy/ Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng?”, là vay là trả. Trong xà lim máy chém, trên đường bước ra pháp trường của thực dân Pháp, người chiến sĩ cách mạng vẫn ngẩng cao đầu, vẫn hiên ngang, tự hào nhắc nhở mình, động viên mình:
Qua mấy nghìn năm đằng đẵng, lớp lớp con người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem mồi hôi và xương máu để xây dựng và bảo vệ nơi chôn nhau cắt rốn của mình, làm nên giang sơn gấm vóc, ngày thêm vẻ vang, ngày thêm giàu đẹp. Ai cũng cảm thấy nghĩa vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc đè nặng đôi vai, gắng sức vươn lên đem tài trí góp sức cùng đồng bào “trả” món nợ cùa tổ tiên, ông cha mà mình đã “vay”, đã nhận:
(Đất nước – Nguyễn Khoa Điểm)
Khép lại đoạn thơ là một lời nhắn gửi về đạo lí làm người. “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Trong văn cách, “cho” là cống hiến, dâng hiến, là phục vụ. “Nhận” là hưởng thụ. Trong cuộc sống thời bình, đem mồ hôi, đem công sức làm ra nhiều của cải,. góp phần làm cho dân giàu nước mạnh là “cho”.
Thời kháng chiến, tất cả mọi miền hậu phương đều hướng về tiền tuyến, thi đua “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”; hàng vạn nam nữ thanh niên ào ào ra trận, quyết tâm “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Hàng ngàn sinh viên Ưu tú “xếp bút nghiên theo việc đao cung” để chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Có biết bao chiến sĩ, đồng bào đã “cho “, đã “hiến dâng”, đã “phục vụ”, đã hi sinh đề giành chiến thắng. Nào ai đã đắn đo, là “chỉ nhận riêng mình”.
Một chữ “cho” bình dị mà chứa đựng biết bao tốt đẹp. Lúc đói rét thì nhường cơm sẻ áo. “lá lành đùm lá rách”; lúc hoạn nạn thì chung lưng đấu cật, đồng cam cộng khổ. Vì ai cũng biết sống đẹp, đã biết “cho” nhau tình thương, san sẻ, tương thân tương ái. Có “cho”, có san sè, có đồng cảm mới được sống hạnh phúc trong tình người rộng lớn, trong lòng đồng bào, đồng chí.
Một chữ “cho” trong bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu ngợi ca tình quân dân cá nước, ngợi ca lòng mẹ Việt Nam chắc nhiều người còn nhớ:
Vì biết “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”, nên ai cũng biết sống đẹp làm tròn nghĩa vụ công dân; sống, lao động, chiến đấu vì sự tồn vong của dân tộc, sự bền vững của đất nước:
(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Những chữ như: “góp nên”, “góp cho”, “góp mình”, “để lại” trong đoạn thơ trên đã làm sáng ngời một quan niệm sống đẹp, “sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Đó là tình nhân ái, đức hi sinh của con người Việt Nam trong trường kì lịch sử.
Nhờ có truyền thống cao đẹp đó mà nhân dân ta tự hào về đất nước Việt Nam:
Học giỏi, lao động tốt vì sự nghiệp đổi mới đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Học giỏi, lao động giỏi, tiến quân vào mặt trận khoa học kĩ thuật. Sống trong lao động sáng tạo, sống hạnh phúc trong tình nhân ái bao la.
Hơn bao giờ hết, tuổi trẻ chúng ta mới thấy thấm thía về tinh cảm, tư tưởng hàm chứa trong một vần thơ đẹp, giàu ý nghĩa:
Gợi ý đề bài 🌸 Liên Hệ Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc 🌸 ý nghĩa!
Cập nhật thông tin chi tiết về Cảm Nhận Đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo ❤️️12 Bài Cảm Nghĩ Hay trên website Bpco.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!