Bạn đang xem bài viết Top 10 Bài Văn Phân Tích “Cảm Hoài” Của Đặng Dung Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Bpco.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bài văn phân tích “Cảm hoài” của Đặng Dung số 1Đặng Dung là danh tướng đời Hậu Trần, theo Trần Trùng Quang chống giặc Minh, lập được nhiều chiến công rất oanh liệt, về sau ông bị giặc bắt, giải về Trung Quốc, dọc đường ông nhảy xuống sông tự tử. Ông chỉ để lại một bài thơ duy nhất, bài “Cảm hoài ” được coi là bài thơ bi hùng nhất trong nền văn thơ cổ điển Việt Nam đầu thế kỉ XV, Nguyễn tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:
“Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma”
Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần lập ra triều đại mới. Nhưng chẳng bao lâu sau, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta: “Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ – Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh” (Bình Ngô đại cáo). Nước ta bị quân giặc chiếm đóng, thành Thăng Long bị chúng đổi thành Đông Quan. Dân tộc ta chìm trong đau thương tang tóc.
Cha con Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt đưa về Trung Quốc. Một bộ phận quý tộc nhà Trần tổ chức kháng chiến, tiêu biểu là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Nhưng đại sự không thành, nhiều anh hùng bị giặc bắt, bị giặc giết, trong đó có Đặng Dung. Bài thơ “Cảm hoài” được Đặng Dung viết trong những năm tháng cầm quân đánh giặc, cứu nước. Bài thơ là tiếng nói, là nỗi lòng của một thế hệ anh hùng cay đắng trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, quyết chiến đấu phục thù rửa hận.
Hai câu đầu phản ánh “thế sự” nước ta vào những năm 1407, 1408, 1409… khi quân “cuồng Minh” như sóng dữ ngập tràn non sông Đại Việt. Như một tiếng than khi đứng nhìn thời cuộc: “Việc đời thì dằng dặc mà tu đã già rồi, biết làm thế nào… Đúng là lòng dạ bối rối. Và đó là bi kịch của người anh hùng:
“Thế Sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca”
(Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say).
Nói rằng “thiên địa nhập hàm ca ” là biểu lộ một thái độ về sự đảo điên trong cuộc đời. Câu 1 và câu 2 tương phản về mặt ý nghĩa đã nói lên “nỗi lòng” cảm hoài của nhà thơ. Hai câu trong phần “thực” đối nhau, nêu bật “gặp thời” và “thất thế” đối với người anh hùng. Như một chiêm nghiệm lịch sử đầy cay đắng:
Vận khứ anh hùng ẩm hận da
Đồ điếu: là đồ tể, người làm nghề mổ thịt; điếu: câu cá. Gặp thời, những kẻ “đồ điếu”, bần tiện cũng dễ dàng làm nên công trạng, sự nghiệp lớn. Câu thơ gợi nhớ đến những nhân vật như Phàn Khoái, bán thịt chó, Hàn Tín, câu cá, về sau giúp Lưu Bang mà làm nên sự nghiệp lớn. Trái lại, nhiều anh hùng thất thế (vận khứ) phải nếm, phải uống nhiều hận (ẩm hận đa). Lịch sử từ bao đời nay đã cho ta thấy rõ điều nhà thơ cảm hoài. Trong câu thơ như có nhiều lệ. Đây là lời thơ dịch khá hay của Phan Kế Bính:
“Bần tiện gặp thời, nên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước, ngẫm càng cay”.
Bảy trăm năm đã trôi qua, biết bao vật đổi sao dời, “phế, hưng mấy lớp” mà ba chữ “ẩm hận đa” vẫn làm nhức nhối lòng người. Đó là nỗi cảm hoài vậy. Đó là nỗi cay đắng của người anh hùng thất thế, lỡ bước. Phần “luận” nói lên chí lớn của người anh hùng. Hình tượng thơ kì vĩ, tráng lệ:
“Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà”.
Trên đường mưu đồ nghiệp lớn, cha bị Trần Ngỗi giết oan, ông đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, vẫn dãi gió dầm sương, xông pha trận mạc, để phò chúa, cứu nước, mong đem lại thái bình cho dân tộc. “Phù địa trục” (nâng trục đất), “vãn thiên hà” (lôi sông Ngân hà xuống) là hai hình ảnh kì vĩ, mang kích thước và tầm vóc vũ trụ, nói lên chí khí và khát vọng anh hùng trong thời loạn. Hai câu thơ hô ứng, đối chọi nhau, tạo nên giọng điệu anh hùng ca đầy ấn tượng. Câu thơ dịch khá hay, lột tả được ý vị cổ điển, trang trọng của vần thơ tráng lệ:
“Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây”
Hình ảnh người anh hùng mài gươm dưới ánh trăng đã “mấy độ”, trải qua nhiều năm tháng, mái tóc nay đã bạc, gợi lên màu sắc bi tráng. Trăng đã tà. Tuổi đã già. Thế mà “quốc thù” vẫn đè nặng tâm hồn nhà thơ:
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
“Long tuyền” là gươm báu, thanh gươm để giết giặc, trả mối thù nước, đem lại thái bình cho đất nước và nhân dân. Đây là hai câu thơ đẹp nhất trong thơ văn Lý Trần, chói sáng “Hào khí Đông-A”. Đúng như Lý Tử Tấn, một danh sĩ đầu thời Lê đã viết: “Phi hào kiệt chi sĩ bất năng”. (không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi). Không thể lấy sự thành, bại để luận anh hùng. Đặng Dung là một anh hùng hào kiệt. Bài thơ thấm đượm một tình yêu nước, nhức nhối nỗi đau của người anh hùng lỡ bước. Cốt cách thi sĩ lồng trong cốt cách anh hùng. Đó là tư thế hiên ngang lẫm liệt, cho đến chết vẫn mang nặng mối thù nước không nguôi.
Đặng Dung đã “ẩm hận đa”, sự nghiệp “quốc thờ vị báo” không thực hiện được. Nhưng khí phách lẫm liệt, lòng yêu nước thiết tha của người anh hùng mãi mãi trường tồn cùng sông núi Đại Việt. Bài thơ “Cảm hoài” cùng với tên tuổi Đặng Dung mãi mãi là bài ca yêu nước chống xâm lăng:
“Thù trả chưa xong, đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày!”
Đó là “di hận” của người anh hùng vận khứ – lỡ vận. Nửa thế kỷ sau Nguyễn Trãi trong bài thơ “Quan hải” cũng nói về mối “di hận” ấy. Đó là nỗi đau muôn thuở:
“Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỉ thiên niên”
(Hoạ phúc có manh mối, đâu phải một ngày,
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau).
“Cảm hoài ” là bài ca yêu nước bi tráng, là tiếng vọng sông núi nghìn năm
Bài văn phân tích “Cảm hoài” của Đặng Dung số 2Bài thơ bộc lộ nỗi lòng của tác giả. Nỗi lòng ấy là nỗi lòng của một con người yêu nước, lo đời, muốn giúp nước mà không gặp thời vận để thoả sức vẫy vùng thực hiện chí lớn. Chính vì vậy bài thơ thấm đượm cảm xúc trữ tình bi tráng tự ngay hai câu thơ đầu:
Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điêu thành công dị
Vận khứ anh hừng ẩm hận đa
Lời thơ đầy tràn nỗi đắng cay, uất hận. “Đã gặp thời thì anh hàng thịt, người câu cá cũng dễ làm nên công lớn. Chứ vận đã hết thì anh hùng cũng chỉ uống nhiều hận mà thôi”! Một triết lí thật đau xót nhưng có lẽ nó vẫn đúng đến đời sau. Và ở đây, chính tác giả là người anh hùng lỡ vận ấy: người anh hùng đã không may mắn gặp thời vận để có cơ hội mang sức mạnh, tài trí của mình ra cứu nước, giúp đời, nay thời vận đã qua, tuổi già cũng vừa đến, người anh hùng (tác giả) chỉ còn biết nuốt hận, bó tay trước thời cuộc mà thôi. Đặng Dung có những ước mong thật lớn lao:
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tбє©y binh vГґ lб»™ vГЈn thiГЄn hГ
Người ôm mộng lớn đã “những muốn giúp chúa nâng trục trái đất, muốn rửa giáp binh nhưng không có lối để kéo tuột sông ngân hà xuống”. Hình ảnh thơ kì vĩ làm sao. Tác giả mong muốn được mang sức mình xoay chuyển thời thế, giúp chúa đánh giặc góp phần đem lại nền thái bình cho nhân dân, đất nước, ước mong lập công ấy thật cao quý và nó cũng là mục đích của những người nam nhi thời bấy giờ. Lập công chính là làm nên sự nghiệp lớn với đời, giúp ích cho đất nước. Có như vậy, người nam tử mới được lưu danh sử sách, ước muốn lập nên sự nghiệp lớn, có dược công danh là khao khát muôn đời của biết bao nam nhi. Biết bao lời thơ đà bày tỏ khát vọng đó. Ca dao đã có câu:
Làm trai cho đáng nên trai
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên
Người anh hùng Phạm Ngũ Lào trong bài thơ “Thuật hoài” cùng đã viết:
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu
Như bao người nam nhi, Đặng Dung cũng có những khát vọng lớn lao muốn cứu nước nhưng ông đã không thể thực hiện được:
Quốc thừ vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma
Câu thơ là nỗi xót xa vô tận của nhà thơ vì lực bất tòng tâm, sự nghiệp lớn mà sức không làm nổi. Ông buồn vì “thù nước chưa báo xong mà đầu tóc đã sớm bạc”. Ông dường như cảm thấy mình có lỗi vì chưa trả xong nợ công danh mà sự nghiệp cứu nước cũng lỡ dở, ông như trách mình vì đã không làm tròn sứ mệnh của một người nam nhi đối với đất nước đang bị lâm nguy. Có được tấm lòng như vậy đã là quý lắm rồi, tuy lực bất tòng tâm mà người anh hùng vẫn không chịu bó tay thì điều ấy còn đáng khâm phục hơn rất nhiều. Chí khí của người anh hùng muốn chống lại quy luật khắc nghiệt của tạo hoá. Ông không bi luỵ trước hoàn cảnh mà vẫn nuôi hùng tâm tráng chí, vẫn có khát vọng thực hiện ý nguyện diệt thù cứu nước. Câu thơ cuối đã khắc hoạ nên hình ảnh đẹp đẽ biết bao. Người anh hùng bao đêm không ngủ, mài gươm dưới bóng nguyệt. Người anh hùng ấy vẫn luôn trăn trở nghĩ về việc nước dù đã bạc mái đầu. Hình ảnh con người ấy lồng lộng giữa trời khuya bao la dưới ánh trăng vằng vặc. Thanh gươm báu hay chí khí lớn lao của con người ngày càng được tôi luyện sắc bén hơn, vững vàng hơn. Hình ảnh người anh hùng xiết bao cao đẹp ấy sẽ khắc sâu vào tâm hồn những người đả đọc bài thơ Cảm hoài.
Về bài thơ này, Lí Tử Tấn đã nhận xét: “Phi hào kiệt chi sĩ bất năng” (không phải kẻ sĩ hào kiệt thì không làm nổi). Với giọng điệu bi tráng, bài thơ đã bày tỏ tấm lòng cao quý của tác giả với đất nước và cũng chỉ con người anh hung như vậy mới thà nhảy xuống sông tự vẫn chứ không chịu đầu hàng giặc Minh xâm lược. Con người ấy hùng vĩ biết bao, cao đẹp biết bao dù đang lâm cảnh mạt vận, thất thế.
Bài văn phân tích “Cảm hoài” của Đặng Dung số 3Tự hào hai tiếng thiêng liêng – Việt Nam, nước Việt ta có bề dày lịch sử lâu dài trong suốt bao nhiêu năm dựng nước và giữ nước. Cứ khi có chiến tranh xảy ra thì dân tộc ta lại đoàn kết chống lại kẻ thù. Nếu như đã có một thời hào khí Đông A như vang vọng thì nguồn hào khí đó đã khiến cho Đặng Dung lấy cảm hứng viết ra tác phẩm đặc sắc “Cảm hoài”.
Đặng Dung là một vị tướng tài ba, có tài văn chương nhưng nhắc đến thơ thì dường như toàn bộ bức chân dung của con người ông dường như đã lột tả được một cách vô cùng sâu sắc. Bài thơ “Cảm hoài” cũng thể hiện khát vọng được cống hiến tài năng, sức lực cho dân, khát vọng được dân hiến cho đất nước của mình cho dù là tuổi đã cao.
Thбєї sб»± du du nбєЎi lГЈo hГ
Dịch:
Việc đời man mác, tuổi già thôi
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi
Đây chính là một con người luôn có ý thức trước trách nhiệm với đất nước, với dân tộc nên lúc nào tác giả Đặng Dung cũng mang trong mình khát khao được cống hiến. Ở ông luôn luôn khao của nhà thơ gặp những giới hạn nhất định chính là một giới hạn về tuổi tác
Thế rồi chính việc đời dù còn mênh mông, có biết bao nhiêu việc cần cống hiến cần dốc sức hoàn thành, thế nhưng chính bản thân mình dù mang những khát vọng, hoài bão có được dâng hiến nhưng mình đã biết được mình làm sao. Câu hỏi đó thì nhà thơ cũng đã tự vấn với chính mình và luôn luôn day dứt đối với tuổi già của chính mình.
Câu thơ này ý muốn nói cuộc đời rộng lớn vô cùng, đành thu cả vào cuộc say ca. Khi đứng trước những khát khao lớn thế nhưng vì bất lực trước tuổi già nên nhà thơ chỉ có thể tự thu mình vào những cuộc say ca. Giống như để tìm đến một thú vui mà tạm quên đi những nỗi khắc khoải trong lòng. Chính vì thế mà sự cố gắng ấy trở nên vô ích, chính bởi Đặng Dung chính là một người trách nhiệm cho dù có tự quên đi hay cố tình làm cho quên nỗi buồn trong lòng của ông dường như cũng cứ thật day dứt và tự vấn:
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
(Gặp gỡ thời cơ may những kẻ
Tan tành sự thế luống cay ai)
Dịch
(Phò vua bụng những mong xoay đất
Gột giáp sông kia khó vạch trời)
Thế rồi chính những câu thơ này nhà thơ Đặng Dung lại thể hiện khát vọng lớn trong suốt cuộc đời mình. Thực sự đó cũng chính là dốc lòng giúp đỡ vua chúa, những mong làm nên được nghiệp lớn, rồi như chống đỡ được trục quả đất “Trí chủ hữu hoài phù đại trục”. Thông qua đây ta cũng có thể thấy những khát vọng của nhà thơ thật đẹp, thật vĩ đại. Tác giả Đặng Dung là con người có tài năng lại có chí. Tác giả như không hề mang các thế mạnh ấy để có thể mưu nghiệp cho bản thân và trung thành với nhà vua. Chính với khát vọng ấy được thể hiện ngay trong câu thơ sâu sắc “Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà” tức nhà thơ muốn rửa sạch giáp binh nhưng lại chẳng có cách nào kéo sông Ngân xuống. Việc rửa sạch giáp binh là gột sạch những những đau thương, chết chóc còn in hẳn trên đó, nó là máu, là sự hi sinh. Có bao giờ con người không còn phải đối mặt với chiến tranh thì cuộc sống mới bình yên và hạnh phúc. Chính với cái khát khao đến một cuộc sống không còn binh lửa, chết chóc ấy nhưng nhà thơ cũng thể hiện sự bất lực khi không thể kéo sông Ngân xuống.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma
(Đầu bạc giang san thù chưa trả
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi)
Đọc đến hai thơ cuối cùng, nhà thơ Đặng Dung dường như cũng đã lại trở về với nỗi trăn trở, buồn bã của bản thâ. Thực sự đó cũng chính là sự mâu thuẫn giữa khát vọng được dâng hiến với giới hạn của đời người. Nhà thơ Đặc Dung cũng sẽ nhận thấy mối thù chung của dân tộc vẫn còn đó nhưng đầu cũng đã bạc đó là “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch”. Thêm với đó chính sự khát khao của nhà thơ trong việc dâng hiến còn thể hiện ở hành động đầy quyết tâm bằng câu “Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”. Câu thơ có ý nghĩa cũng đã bao phen đội trăng để mài gươm báu Long Tuyền.
Tóm lại bài thơ “Cảm hoài” dường như cũng chính là sự bộc lộ nỗi niềm, tâm sự của một con người nhập thế, luôn luôn hết lòng với dân tộc, với đất nước. Nhà thơ Đặng Dung cũng đã nguyện đem hết tài trí, sức lực hiến dâng cho sự nghiệp lớn, tiêu diệt quân thù đồng thời cũng mong muốn báo đền nợ nước. Bài thơ có âm hưởng bi tráng, triết lí sâu sắc ẩn chứa trong đó nỗi uất hận ngút trời, chí lớn khôn nguôi, tấm lòng vằng vặc. Bài thơ “Cảm hoài” được biết đến không chỉ là bức chân dung về con người cũng như khí phách của Đặng Dung mà còn là tác phẩm tiêu biểu cho hào khí Đông A một thời.
Bài văn phân tích “Cảm hoài” của Đặng Dung số 4Từ xưa đến nay nhân dân ta luôn có trong mình lòng yêu nước, tự hào dân tộc và muốn xây dựng quê hương đất nước dù có gặp bất cứ khó khăn gì. Tinh thần ấy càng được thể hiện rõ hơn khi đất nước có chiến tranh, tinh thần chiến đấu càng dâng cao mãnh liệt. Và Bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung đã thể hiện rõ tinh thần ấy. Hai câu thơ mở đầu đã bày tỏ tâm sự của tác giả khi ý thức được tình huống đầy mâu thuẫn:
Vô cùng thiên địa nhập hàn ca
Đó là mâu thuẫn giữa việc đời dài dằng dặc với chủ thể trữ tình đã già, biết phải làm sao? Vừa ý thức được bi kịch vừa đặt ra câu hỏi: tuổi tác là bi kịch lớn của đời người là hạn chế mà ta khó thể vượt qua. Thời gian trôi đi ta lại già đi khiến người ta cho dù còn trí hướng thì khó đạt được. Bi kịch không đơn giản về tuổi tác mà ý thức trách nhiệm của nhà thơ với việc nước. Đó là việc bảo vệ đất nước, tiêu diệt giặc ngoại xâm. Vì thế vấn đề tuổi tác lại một lần nữa tạo nên nhân tố bi kịch khiến nhà thơ phải thốt lên câu hỏi “biết làm sao đây” là tiếc, trăn trở, một chút ngậm ngùi vì bất lực nhưng lại là cách đặt ra trách nhiệm với cuộc đời ngay khi tuổi đã già. Đây là quan niệm sống cao đẹp, là lẽ sống cống hiến có ý nghĩa với nước với dân, là biểu hiện kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh. Nhưng câu thơ thứ hai với hình ảnh thơ kì vĩ thấy được hoài bão của con người trước thiên nhiên để xoay chuyển cục diện đã nâng tầm trí tuệ của chủ thể trữ tình vượt lên trên bi kịch tuổi tác. Từ bi kịch đó mà làm bật lên sự băn khoăn của con người ham đấu tranh, chiếm lĩnh thế giới vượt lên giới hạn cuộc đời. Từ ý thức về hoàn cảnh của mình nhà thơ bày tỏ những suy nghĩ sâu sắc về thời và thế.
Câu thơ có nhắc đến chuyện bán thịt, câu cá của Phàm Khoái, Hàn Tín nhưng không phải nhấn mạnh kẻ phàm thường cũng có thể thành công nếu gặp thời. Vì vậy kẻ anh hùng không gặp thời lỡ vận thì cũng tất yếu. Mất thời không thế dẫu là người tài thì cũng thất bại mà thôi. Vậy mà khi viết về Hồ Quý Li một ông vua nhà cải cách vĩ đại thế kỉ XV Nguyên Trãi nhận xét: “Anh hùng để hận mấy trăm đời” Mối hận Hồ Quý Li là không có nhân hào không có người hiền tài để chống đỡ còn Đặng Dung là mối hận người anh hùng lỡ vận không có thiên thời. Đây là những trải nghiệm được đúc kết từ cuộc đời của nhà thơ từ những kinh nghiệm đầy máu, nước mắt từ những năm tháng cầm quân đánh giặc. Hai câu thơ không chỉ được viết bằng trải nghiệm mà bằng sự phân tích đầy lí trí, sự linh cảm về kết cục đáng buồn mà mình sắp phải gánh chịu.
Tuy biết mình tuổi cao thời vận hết nhưng không buông xuôi tuyệt vọng:
Bày tỏ mong muốn của tác giả vọng lên trong tâm can cháy lên trong khát khao muốn được giúp vua giúp chúa muốn nâng đỡ giang sơn đang nghiêng lệch. Câu thơ thứ sáu có mượn ý của bài “Tẩy binh mã” của Đỗ Phủ để bộc lộ mong muốn chấm dứt chiến tranh lập lại hào bình cho dân cho nước. Mong muốn ấy được gửi vào những hình ảnh thơ kì vĩ bộc lộ qua giọng điệu mạnh mẽ khiến chủ thể trữ tình trở nên lớn lao sánh ngang vũ trụ. Dù sức tài lực kiệt, dù thời vận không đến nhưng không gì có thể ngăn cản được ý chí tâm huyết và khát vọng người anh hùng trong sự nghiệp kinh bang cứu thế. Cho dù bất cứ thời điểm nào thì tâm nguyện của Đặng Dung là mang tài năng của mình giúp vua đem thái bình cho dân tộc. Đó là tâm nguyện người anh hùng nhưng thật đáng tiếc là không thể vượt qua thực tại khắc nghiệt vẫn đối mặt với nỗi đau của sự bất lực. Đến thời điểm này Đặng Dung vẫn chưa tìm thấy con đường nào để đi tiếp chấm dứt chiến tranh mà đều bế tắc. Vì vậy dù nói về điều kì vĩ nhưng câu thơ vẫn đọng lại sự ngậm ngùi. Như bao người nam nhi, Đặng Dung cũng có những khát vọng lớn lao muốn cứu nước nhưng không thể thực hiện được:
Thù nước chưa trả thì mái tóc đã bạc sớm mất rồi vẫn là một tình huống đầy bi kịch ý thức tuổi tác lại là trở ngại. Trong tâm thức tác giả điều luôn canh cánh trong lòng đã hiện hữu một cách trực tiếp. Tuy có chút ngậm ngùi về giới hạn tuổi tác trên con đường cứu nước chưa có lối thoát nhưng hùng tâm tráng trí thì vẫn chưa phai nhạt. Trong câu kết hình ảnh người anh hùng một lão tướng tóc đã bạc nhưng biết bao lần mang gươm báu mà dưới ánh trăng. Hình ảnh một con người với hành động kiên định không chịu cúi đầu không thua cuộc bền bỉ nung nấu ý nguyện được trả thù. Có thể coi câu kết là điểm sáng bài thơ để nhận ra ngoài sự cảm thương cho số phận người anh hùng lỡ vận thì cảm giác hào sảng bởi hùng khí ngút trời cứ dấy lên trong người đọc niềm tin vào ý chí bất khuất của con người trước mọi hoàn cảnh để thấy rằng dù thất bại mà lòng không nản. Bài thơ vừa buồn mà như khúc tráng ca.
Bài thơ đã thể hiện rất rõ tinh thần của nhân dân ta dù có bị vấn đề tuổi tác hay ngoại cảnh tác động với lòng căm thù giặc đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi đất nước. Đó chính là bài học cho thế hệ trẻ chúng ta phải không ngừng cố gắng xây dựng đất nước.
Bài văn phân tích “Cảm hoài” của Đặng Dung số 5Việt Nam là đất nước có truyền thống, bề dày về lịch sử, trong suốt chiều dài của quá trình dựng nước và giữ nước ông dân tộc ta đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, biến cố. Và cùng với sự phát triển của lịch sử đấu tranh là sự phát triển của lịch sử văn học. Cứ mỗi khi đất nước có giặc ngoại xâm, có các cuộc đấu tranh chống giặc thì các tác phẩm thơ văn viết về đề tài yêu nước lại phát triển hơn bao giờ hết. Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, có một thời kì đó là thời kì Đông A, khi mà các nhà văn, nhà thơ lớn đều hướng ngòi bút của mình đến phản ánh sự oai hùng của dân tộc, ca ngợi sức mạnh, ca ngợi triều đại và lòng tự hào trước những chiến thắng lừng lẫy. Cũng trong phong trào văn học mang hào khí Đông A ấy, nhà thơ Đặng Dung đã viết ra một tác phẩm nổi tiếng “Cảm hoài”.
Trong văn học trung đại xưa, ta có thể thấy ngoài những nhà Nho, những nhà trí thức làm nên lực lượng sáng tác văn chương hùng hậu thì còn có một sự đóng góp không hề nhỏ của những người tướng lĩnh, họ là những người tài ba khi cầm quân đánh giặc nhưng khi cầm bút thì họ lại là những nhà văn, nhà thơ xuất chúng, hơn người. Nếu nhắc đến tướng Lí Thường Kiệt ta sẽ nhớ ngay đến bài thơ thần gắn bó với tên tuổi của ông “Nam Quốc sơn hà”, hay tướng Trần Quang Khải thì ta cũng có thể liên tưởng ngay đến tác phẩm “Tụng giá hoàn kinh sư”. Có nghĩa tên tuổi của những vị tướng này gắn liền với các tác phẩm thơ văn mà mình sáng tác.
Cũng là một vị tướng tài ba, có tài văn chương nhưng nhắc đến thơ thì dường như toàn bộ bức chân dung của con người ông cũng được lột tả một cách sâu sắc, đó là “Cảm hoài” của Đặng Dung. “Cảm hoài”được hiểu là nỗi lòng, xúc cảm của chính bản thân của nhà thơ Đặng Dung. Ngay mở đầu bài thơ, Đặng Dung đã thể hiện được khát vọng được cống hiến tài năng, sức lực cho dân, cho nước nhưng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của mình khi tuổi tác đã lớn:
“Thбєї sб»± du du nбєЎi lГЈo hГ
(Việc đời man mác, tuổi già thôi
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi”
Là một con người luôn có ý thức trước trách nhiệm với đất nước, với dân tộc nên lúc nào Đặng Dung cũng mang trong mình khát khao được cống hiến, khát khao được mang sức lực của mình ra để giúp dân, giúp nước. Nhưng sự tha thiết trong khát khao của nhà thơ gặp những giới hạn nhất định, đó chính là sự giới hạn về tuổi tác “Thế sự du du nại lão hà” việc đời dù còn mênh mông, bao nhiêu việc cần cống hiến cần dốc sức hoàn thành nhưng bản thân mình dù mang những khát vọng, hoài bão lớn được dâng hiến, nhưng chợt nhận ra mình đã già, biết làm sao? Câu hỏi đó nhà thơ tự vấn với chính mình và tự day dứt với tuổi già của chính mình.
“Vô cùng thiên địa nhập hàm ca” tức cuộc đời rộng lớn vô cùng, đành thu cả vào cuộc say ca. Trước những khát khao lớn, nhưng vì bất lực trước tuổi già nên nhà thơ chỉ có thể tự thu mình vào những cuộc say ca, như để tìm đến một thú vui mà tạm quên đi những nỗi khắc khoải trong lòng. Nhưng dường như sự cố gắng ấy của nhà thơ cũng vô ích. Bởi Đặng Dung lại là con người rất trách nhiệm, dù có tự quên hay cố tình làm cho quên đi nỗi buồn trong lòng thì ông vẫn day dứt tự vấn:
Ở những câu thơ này nhà thơ Đặng Dung lại thể hiện khát vọng lớn trong suốt cuộc đời mình, đó chính là dốc lòng giúp đỡ vua chúa, những mong làm nên được nghiệp lớn, ví như chống đỡ được trục quả đất “Trí chủ hữu hoài phù đại trục”. Ta có thể thấy những khát vọng của nhà thơ thật đẹp, thật vĩ đại, Đặng Dung là con người có tài năng lại có chí. Ông không mang những thế mạnh ấy để mưu nghiệp riêng cho bản thân mà luôn luôn trung thành với nhà vua, cũng như với triều đại mà mình sinh sống, đó là con người nhập thế khi luôn muốn tài năng cống hiến cho đất nước. Khát vọng của ông cũng rất có tầm vóc, vì ông muốn xoay chuyển cả vũ trụ, chống đỡ trục quả đất, tức là mang sức mình ra để bảo vệ cho người dân, bảo vệ cho đất nước, giang san.
Không chỉ là con người có chí lớn trong mưu nghiệp việc lớn mà Đặng Dung còn là con người luôn đề cao cuộc sống thanh bình, không còn chiến tranh, cuộc sống của người dân không còn lầm than, chết chóc, chia li. Khát vọng ấy được thể hiện ngay trong câu thơ “Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà” tức nhà thơ muốn rửa sạch giáp binh nhưng lại chẳng có cách nào kéo sông Ngân xuống. Rửa sạch giáp binh là gột sạch những những đau thương, chết chóc còn in hẳn trên đó, nó là máu, là sự hi sinh. Bao giờ con người không còn phải đối mặt với chiến tranh thì cuộc sống mới bình yên và hạnh phúc. Khát khao đến một cuộc sống không còn binh lửa, chết chóc ấy nhưng nhà thơ cũng thể hiện sự bất lực khi không thể kéo sông Ngân xuống.
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”
Đến hai thơ cuối cùng, nhà thơ lại trở về với nỗi trăn trở, buồn bã của bản thân, đó là sự mâu thuẫn giữa khát vọng được dâng hiến với giới hạn của đời người. Nhà thơ nhận thấy mối thù chung của dân tộc vẫn còn đó nhưng đầu cũng đã bạc “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch”, sự khát khao của nhà thơ trong việc dâng hiến còn thể hiện ở hành động đầy quyết tâm “Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”, tức đã bao phen đội trăng để mài gươm báu Long Tuyền.
Như vậy, bài thơ “Cảm hoài” chính là sự bộc lộ nỗi niềm, tâm sự của một con người nhập thế, hết lòng với dân tộc, với đất nước. Nhà thơ nguyện đem hết tài trí, sức lực hiến dâng cho sự nghiệp lớn, tiêu diệt quân thù, báo đền nợ nước. Âm hưởng bi tráng, triết lí sâu sắc, uất hận ngút trời, chí lớn khôn nguôi, tấm lòng vằng vặc. Bài thơ không chỉ là bức chân dung về con người cũng như khí phách của Đặng Dung mà còn là tác phẩm tiêu biểu cho hào khí Đông A.
Bài văn phân tích “Cảm hoài” của Đặng Dung số 6Với một triều đình yếu kém, mục ruỗng, kết quả là quốc gia rơi vào vòng nô lệ. Ngọn cờ nghĩa khí phất lên từ trại Trùng Quang cũng không giành lại được cơ đồ. Là một anh hùng thất thế thời ấy, trước lúc ra đi, Đặng Dung đã để lại một nỗi ” cảm hoài “.
Có phải đó là tiếng thở dài của một người anh hùng thất thế? ” Việc đời trôi mãi nhưng ta đã già rồi “! Với một cuộc đời chìm nổi, va chạm với rất nhiều thử thách vậy mà bây giờ Đặng Dung phải bó gối ngồi nhìn ” thế sự du du “, làm sao tránh được nỗi sầu vạn cổ? Trong câu hát nghêu ngao của người anh hùng thất thế là cả một nỗi hoài cảm mênh mang ” vô cùng thiên địa “! Vận khứ, tiệc tàn nhưng mối sầu còn mãi với ngàn thu. Giới thiệu mối ” cảm hoài “, hai câu đề đã ôm trùm vũ trụ. Một chút đại ngôn cho ta hiểu chí anh hùng.
Theo bố cục cổ điển của một bài thất ngôn bát cú thì hai câu tiếp theo phải là câu thực. Thế nhưng “thời lai đồ điếu thành công dị / Vận khứ anh hùng ẩm hận đa ” lại được sinh ra dưới hình hài của hai câu luận – đó là một cách nhìn nhận đánh giá sự thành bại ở đời. Đôi khi, ở những bài thơ thất ngôn bát cú, hai câu luận lại mang nét thực. Đó là khi sự kiện đến ồ ạt, dồn dập khiến ta không còn thời gian để mà bàn luận nữa.Chẳng biết đây có phải là bài thơ duy nhất trong văn học Việt Nam có hai câu thực mang nét luận hay không? Việc đã theo dòng trôi xa, Đặng Dung có đủ độ lùi để uống cạn niềm cay đắng. Ta hình dung ông như một con người ngồi lại bên dòng chảy cuộc đời mà trầm mặc suy ngẫm.
Kẻ “đồ”, “điếu’ mà ông nói đến trong câu thơ trên là Hàn Tín và Khương Tử Nha, hai anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Xuất thân từ những kẻ bần hàn, họ vẫn có thể dựng nên công nghiệp, có thể đem tài trí của mình để mộng bá đồ vương. Còn ông xuất thân từ một gia đình danh tướng thì sao?… Cọp chết để da… Đặng Dung ơi! Tiếng thơm của người anh hùng còn vang mãi. Chẳng phải “lạc nước hai xe đành bỏ phí’ ông cho rằng “vận’ của mình đã ‘khứ’. Thời thế giờ đây không giúp kẻ anh hùng. Ông cay đắng thừa nhận mình bất lực, dẫu không là một kẻ bất tài.
Ta cảm thấy choáng ngợp trước hình ảnh thơ to lớn, kì vĩ. Không có sức mạnh như Hercules của thần thoại Hy Lạp, Đặng Dung vẫn muốn nâng trục đất để giúp vua, giúp nước… Nhà Trần đã đi qua nhưng hào khí của một thời lịch sử kiêu hùng còn bừng cháy trong ông. Lòng yêu nước thương dân của ông đã được thể hiện rất rõ qua câu thơ ” tẩy binh vô lộ vãn thiên hà “. Ông muốn tẩy binh. Vâng! Rửa áo giáp của một cuộc chiên tranh tàn khốc. Dù biết sẽ rất khó khăn, ông phải rửa nhữg giọt máu của bao sinh linh còn vương trên áo, rửa đi dấu vết của bụi đường trong ngàn dặm chinh an. Với tấm lòng của một người yêu nước, ông sẵn sàng làm điều đó, ông chỉ muốn vươn tới một nền hòa bình thực sự. Nhưng tiếc thay! Nhịp chùng của bài thơ đã tới, “Vô lộ vãn thiên hà”. Chỉ có thiên hà mới gột được giáp binh. Nhưng “thiên hà”, con sông rộng lớn với muôn vàn tinh tú, chỉ tồn tại trên bầu trời hoặc trong giấc mơ của những người mang chí lớn mà thôi. Mãi đến lúc ra đi ông vẫn mong tìm cho bằng được đường khai thông thiên hà xuống trần gian, cho nền hòa bình, độc lập trở về cùng đất Việt.
Kỷ độ long tuyền đai nguyệt ma
Còn gì buồn hơn cho kẻ anh hùng khi nghiệp lớn của cuộc đời dang dở? Tuổi xanh qua đi, quốc thù còn đó – ta cứ ngỡ bài thơ khép lại trong một tiếng thở dài.
“Kỷ độ long tuyền đai’ nguyệt ma” – câu thơ cuối đã xóa đi những suy diễn tầm thường đó, nó ánh lên một nỗi tự hào, như vầng hào quang của thanh gươm quý ngời lên giữa đêm trăng. Tuổi già, đầu bạc, vận đã qua rồi nhưng người nghĩa sĩ mấy độ mài gươm không có điều gì phải hộ thẹn với đời, dẫu lòng mang bao tiếc nuối. Thanh gươm mà ông từng mài trong đêm trăng ấy có một nét nào đó giống ngọn giáo mà Phạm Ngũ Lão đã từng trấn giữ núi sông. Thanh gươm ấy, hy vọng rằng Đặng Dung vẫn giắt bên hông khi lao mình xuống sông để không lọt vào tay giặc.
Trải qua hơn nửa thiên niên kỷ, “Cảm Hoài” vẫn đứng đấy sừng sững, tượng trưng cho một ý chí Việt Nam. Dù bất lực trước cuộc đời, những câu thơ của Đặng Dung vẫn hằn lên những nỗi niềm to lớn, hình như sĩ khí của một đời cầm gươm đã ám ảnh từng câu chữ – “Phi hào kiệt chi sĩ bất năng”. Nhà Hồ tan rã là một điều tất yếu nhưng lịch sử lại có thêm tên tuổi Đặng Dung và văn học Việt Nam mãi khắc ghi một mối “Cảm Hoài”.
Bài văn phân tích “Cảm hoài” của Đặng Dung số 7Đặng Dung là một danh tướng dưới thời Hậu Trần, khi còn trẻ ông đã lập được rất nhiều chiến công trong cuộc đấu tranh chống giặc Minh. Về sau Đặng Dung bị giắc bắt, không chịu khuất phục trước kẻ thù, trên đường đi ông đã nhảy xuống sông để tự vẫn. Bài thơ Cảm hoài là bài thơ tiêu biểu của ông viết về những tâm sự của bản thân về khát vọng lập công và sự day dứt trong thực tại.
Mở đầu bài thơ, tác giả Đặng Dung đã gợi mở khung cảnh đất nước ta vào những năm 1407 – 1409 khi quân Minh kéo vào nước ta:
(Dịch: Việc đời bối rỗi tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộc say
Trước thế sự rối loạn, giặc Minh tràn vào Đại Việt với âm mưu xâm lược thâm độc, tác giả Đặng Hoài đã thể hiện niềm đau xót khôn nguôi qua tiếng than đầy bất lực, thế sự căng thẳng, người anh hùng sôi sục khát khao lập công, cứu nước nhưng tuổi già đến, ước nguyện chẳng thể nào thực hiện được. Đây thực sự là một bi kịch đầy đau khổ đối với một người anh hùng như Đặng Dung. “Vô cùng thiên địa nhập hòa ca” thể hiện được thái độ của nhà thơ trước tình thế đảo điên của thời cuộc. Câu thơ thứ nhất và thứ hai tuy có sự đối lập về ý nghĩa nhưng đều góp phần thể hiện được tâm trạng của nhà thơ.
( Dịch: Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay )
“Đồ điếu” chỉ người mổ thịt và người câu cá. Câu thơ có ý nghĩa, nếu như gặp thời thì những người câu cá cũng có thể đạt được thành công dễ dàng, câu thơ cũng gợi cho chúng ta liên tưởng đến một nhân vật trong lịch sử Trung Hoa, đó là Phàn Khoái, từng làm nghề bán thịt chó, Hàn Tín thuở hang vi cũng từng câu cá nhưng cuối cùng đi theo Lưu Bang và lập nên được sự nghiệp lớn. Đối với những người thất thế thì lại phải chịu nhiều ẩn hận. Đây là nỗi đau của người anh hùng thất thế khi thời thế đổi xoay.
(Dịch:
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây. )
Hai câu luận lại hướng đến hình tượng mang tính kì vĩ, tráng lệ. Trong cuộc đời của mình, Đặng Dung luôn đặt trách nhiệm với đất nước lên trên hết, ông không quản những gian khó mà xông pha trận mạc, phò vua, cứu nước. Những hình ảnh “phù địa trục”, “vãn thiên hà” là những hình ảnh mang tính kì vĩ, lớn lao, thể hiện được khát vọng của người anh hùng trong thời loạn. Hai câu thơ cuối đối nhau tạo nên giọng điệu hào sảng đầy ấn tượng.
(Dịch: Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.)
Hai câu thơ cuối đã gợi ra hình ảnh của người anh hùng mài gươm dưới ánh trăng sáng, trải qua nhiều năm tháng thì mái đầu cũng đã bạc dần, câu thơ gợi ra màu sắc hào hùng , bi tráng. Tuy tuổi đã già nhưng việc nước chưa hoàn thành nên nhà thơ vẫn nặng trĩu những trăn trở, suy tư. “Long Tuyền” ở đây là thanh gươm báu dùng để giết giặc, lập công, mang lại độc lập, hòa bình cho dân tộc. Hai câu thơ cuối của bài Cảm hoài được coi là hai câu thơ đẹp nhất, thể hiện rõ nét hào khí Đông A dưới thời nhà Trần.
Qua bài thơ ta có thể thấy được Đặng Dung là một người anh hùng luôn nặng lòng với nước,với dân, bài thơ thấm được được tình yêu nước, sự day dứt, đau khổ của người anh hùng lỡ bước. Nguyễn Trãi trong bài thơ Quan Hải cũng đã gặp gỡ với tư tưởng của Đặng Dung:
“Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
Họa phúc có manh mối, đâu phải một ngày
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau”
Như vậy, ta có thể thấy Cảm hoài là bài ca về tình yêu nước đầy bi tráng của người anh hùng cả đời dâng hiến công sức cho dân cho nước.
Bài văn phân tích “Cảm hoài” của Đặng Dung số 8Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã trải qua biết bao thăng trầm. Song song với lịch sử phát triển của dân tộc là lịch sử của một nền văn học truyền thống, ở mỗi giai đoạn mỗi thời kì lịch sử khác nhau lại có những thế hệ nhà văn nhà thơ khác nhau góp tên mình vào bản đồ văn học nước nhà. Trong thời kì văn học Trung Đại Việt Nam ta không thể không nhắc tới Đặng Dung một tác giả trong thời kì hào khí Đông A, ông đã viết lên một tác phẩm mà đến tận bây giờ vẫn được người đời lưu truyền đó là tác phẩm “ Cảm hoài”.
Cảm hoài là một bài thơ tự sự bằng chữ Hán, được sáng tác trong hoàn cảnh khi ông đem quân giúp vua Trùng Quang Đế. Cảm hoài thể hiện ý chí tinh thần sắt đá của chân dung người anh hung tuy không gặp thời, gặp thế nhưng vẫn nuôi trong mình ý chí lớn. Đặng Dung không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn có tài văn chương xuất trúng. Nhắc đến thơ của ông, dường dường như hiện lên cả chân dung con người ông được lột tả một cách sâu sắc qua từng câu thơ. Mở đầu bài thơ với hai câu thơ ngắn gọn nhưng đã thể hiện dc khát vọng của tác giả. Khát vọng được cống hiến tài năng, sức lực cho dân cho nước. Nhưng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của chính tác giả, bất lực trước tuổi tác đã cao mà trí lớn chưa thành.
Luôn ý thức về trách nhiệm của bản thân mình trước đất nước và dân tộc thì tác gải lại càng thất vọng về hạn định về mặt tuổi tác, nhưng cũng không vì thế không vì tuổi tác mà quên đi khát khao trong chính bản thân tác giả. Theo tác giả việc đời dù có mênh mông bao nhiêu nhưng còn cống hiến được thì cần dốc hết sức để hoàn thành “ Thế sự du du nại lão hà”. Trong hai câu thơ đầu tiên này ta có thể thấy sự tài tình của tác giả khi đã đưa vào hai câu thơ trên thủ pháp tương phản, để làm đối lập những hình ảnh sự việc được nói đến cho thấy sự đối lập theo con mắt của tác giả. Trong câu thơ đầu tiên là sự đối lập giữa việc đời dằng dặc đối với hiện thực ta đã già rồi, ở câu thơ thứ hai là sự đối lập giữa trời đất mênh mông và cuộc rượu hát ca. Qua những hình ảnh đối lập này ta có thể thấy giới hạn của tự nhiên, sự mênh mông của trời đất “ vô cùng thiên tận” và “thế sự” là không bao giờ kết thúc chỉ có đời người và cuộc vui thì rồi cũng sẽ đến lúc tàn. Đó là sự đối lập giữa cái vô cùng của cuộc đời với cái hữu hạn của đời người. Cả hai câu thơ như lắng lại chút xót xa trong lòng người đọc như cũng đang xót xa cho chính mình. Từ đó ta có thể thấy được tâm trạng buồn bã và đau đớn của tác về nhân thế.
Biết chăng có mấy anh hung thời xưa gặp thời gặp thế? Nói đến thời thế khi gặp thời gặp thế thì kể cả những người bình thường cũng làm lên cơ nghiệp lớn. Còn bậc đấng anh hùng, nếu không gặp thời gặp thế thì cũng chẳng khác kẻ phàm nhân. Ở đây tác giả đã mượn chuyện Phàn Khoái bán thịt, Hàn Tín câu cá sau giúp hán Cao Tổ làm nên nghiệp lớn. Ở đây tác giả không muốn chê họ là những kẻ tầm thường, bất tài mà chỉ chủ yếu để nhấn mạnh rằng người anh hùng mà không gặp thời vận thì cũng chỉ biết ôm hận người bình thương nhưng gặp thời vận lại có thể làm nên nghiệp lớn. Tuy là một đấng anh hùng nhưng ở chính hai câu thơ này tác giả lại tự chế giễu mỉa mai chính mình đã hết vận số dù có mong mỏi cũng không thể làm được gì để có thể cống hiến cho dân cho nước. Đi từ những hạn định được chính ông xác định về mặt nhân thế, tác giả chuyển sang nhấn mạnh về tầm quan trong của thời thế trong việc giúp dân giúp nước. Ở hai câu thơ tiếp theo tác giả lại nói lên khát vọng lớn trong suốt cuộc đời minh.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Ở đây xuất hiện hai hình ảnh “ phù địa trục” và “ vãn thiên hà”, hai hình ảnh này đều là những hình ảnh đẹp có sức diễn tả khát vọng lớn lao. “ Phù địa trục” ở đây có nghĩa là xoay trục đất lại còn “ vãn thiên hà” có nghĩa là kéo tuột sông Ngân Hà xuống. Cả hai hình ảnh này đều mang tính phóng đại để thể hiện khát vọng cao cả của Đặng Dung đem hết sức mạnh, tài trí của mình để giúp cho đất nước mang lại nền thái bình cho nhân dân. Đồng thời nó cũng thể hiện sự bất lực của ông khi tuổi đã già, qua hai câu thơ ta có thể thấy tâm trạng bi tráng của nhà thơ. Trong thời Trung Đại đứng trước những biến cố của lịch sử các đấng anh hùng cũng không vì thế mà nguôi ngoai đi việc thực hiện trí lớn và Đặng Dung cũng vậy. Khát vọng của ông là dốc lòng giúp đỡ vua chúa những mong làm nên nghiệp lớn ví như chống đỡ được cả trục đất trời. Ta có thể thấy những khát vọng của nhà thơ thật đẹp, thật vĩ đại ông không chỉ là một người vừa có tài lại có trí lớn. Ông không mang những thế mạnh ấy để mưu nghiệp riêng cho bản thân mà luôn luôn trung thành với nhà vua cũng như là cả triều đại mà mình sinh sống. Khát vọng của ông mang tầm vóc vũ trụ, lớn lao muốn bảo vệ cho đất nước, giang san. Không chỉ là con người luôn nuôi trong mình trí lớn đối với sự nghiệp vận mệnh của quốc gia dân tộc mà ông còn luôn đề cao cuộc sống thanh bình không còn chiến tranh, lầm tham và những cuộc li biệt chết chóc. Khát vọng ấy được thể hiện rõ trong câu thơ “ Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà” có nghĩa là muốn rửa sạch binh giáp mà không có cách nào kéo được song Ngân Hà xuống. Rửa sạch giáp như muốn rửa đi sự đau thương trong binh đao loạn lạc. Bao giờ con người không còn phải đối mặt với chiến tranh thì cuộc sống mới bình yên và hạnh phúc. Khát khao đến cuộc sống không còn binh lửa chết chóc nhưng phần nào đó tác giả như đang nói lên sự bất lực của chính bản thân mình.
Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
Đến hai câu thơ cuối bài nhà thơ lại trở về với nỗi trân trở, buồn bã của bản thân,đó là sự mâu thuẫn giữa khát vọng được dâng hiến với giới hạn của đời người. Hai câu thơ thể hiện tráng trí của nhà thơ đó là hình ảnh của “ đầu tiên bạch” và “ Kỉ độ Long Tuyền”. Đây đều là những hình ảnh mang tính ước lệ tương trưng. Câu thơ đầu tiên ý muốn nói đến khát khao dân hiến còn thể hiện ở hành động quyết tâm “ Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”, tức là bao phen đội trăng để mài gươm báu Long Tuyền. Hai câu thơ cuối vừa khắc họa được tâm trạng đau buồn của một kẻ lỡ vận ngậm ngùi nhìn cuộc đời trôi đi bao nhiêu hoài bão vẫn còn dang dở. Tuy nhiên điều làm cho bài thơ không mang tính bi quan là sự xuất hiện của hình ảnh bao phen mài gươm dưới nguyệt. Hình anh này tô đậm khí chất của đấng anh hùng hay cũng chính là tác giả.
Bài thơ là chuỗi dòng cảm xúc bộc lộ nỗi niềm của một con người nhập thế, hết lòng với dân với nước. Ông không chỉ nguyện đem hết tài trí sức lực của mình cho dân cho nước, cho sự nghiệp lớn mà còn thể hiện khát vọng cho nhân dân có được một cuộc sống thanh bình không có sự đau thương. Bài thơ mang âm hưởng bi tráng, triết lí sâu sắc, uất hận ngút trời, chí lớn không nguôi cùng với tấm lòng cao cả. Bài thơ không chỉ là bức chân dung về con người khí phách của tác giả mà còn thể hiện sự hào hùng của hào khí Đông A.
Bài văn phân tích “Cảm hoài” của Đặng Dung số 9Đặng Dung là danh tướng đời Hậu Trần, theo Trần Trùng Quang chống giặc Minh, lập được nhiều chiến công rất oanh liệt, về sau ông bị giậc bắt, giải về Trung Quốc, dọc đường nhảy xuống sông tự tử. Ông chỉ để lại một bài thơ duy nhất, bài “Cảm hoài” được coi là bài thơ bi hùng nhất trong nền văn thơ cổ điển Việt Nam đầu thế kỉ XV. Nguyên tác bằng chừ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:
Thời lai dồ điếu thành công dị,
Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma”.
Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần lập ra triều đại mới. Nhưng chẳng bao lâu, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta: “Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa – Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh” (Bình Ngô đại cáo). Nước ta bị quân giặc chiếm đớng, thành Thăng Long bị chúng đổi thành Đông Quan. Dân tộc ta chìm trong đau thương tang tóc. Cha con Hồ Quý Ly bị giặc bắt đưa về Trung Quốc. Một bộ phận quý tộc nhà Trần tổ chức kháng chiến, tiêu biểu là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Nhưng đại sự không thành, nhiều anh hùng bị giặc bắt, bị giặc giết, trong đó có Đặng Dung. Bài thơ “Cảm hoài” được Đặng Dung viết trong những năm tháng cầm quân đánh giặc cứu nước. Bài thơ là tiếng nói, là nỗi lòng của một thế hệ anh hùng cay đắng trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, quyết chiến đấu phục thù rửa hận.
Hai câu đầu phản ánh “thế sự” nước ta vào những năm 1407, 1408, 1409… khi quân “cuồng Minh” như sóng dữ ngập tràn non sông Đại Việt. Như một tiếng than khi đứng nhìn thời cuộc: “Việc đời thì dằng dặc mà ta đã già rồi, biết làm thế nào..:”. Đúng là lòng dạ bối rối. Và đó là bi kịch của, người anh hùng: “Thế sự du du nại lào hà – Vô cùng thiên địa nhập hàm ca” (Việc đời bối rối tuổi già vay – Trời đất vô cùng một cuộc say). Nói rằng “thiên địa nhập hàm ca” là biểu lộ một thái độ về sự đảo điên trong cuộc đời. Câu 1 và câu 2 tương phản về mặt ý nghĩa đã nói lên “nỗi lòng” cảm hoài của nhà thơ. Hai câu trong phần “thực” đối nhau nêu bật “gặp thời” và “thất thế” đối với người anh hùng. Như một chiêm nghiệm lịch sử đầy cay đắng:
“Thời lai đồ điếu thành công dị,
Đồ điếu là đồ tể, mổ thịt; điếu: câu cá. Gặp thời, những kẻ “đồ điếu’ cùng dễ dàng làm nên công trạng, sự nghiệp lớn. Câu thơ gọi nhớ đến những nhân vật như Phàn Khoái bán thịt chó, Hàn Tín câu cá, về sau giúp Lưu Bang mà làm nên sự nghiệp lớn. Trái lại, nhiều anh hùng thất thè (vận khứ) phải nếm, phải uống nhiều hận (ẩm hận đa). Lịch sử từ bao đời nay đà cho ta thấy rõ điều nhà thơ cảm hoài. Trong câu thơ như có nhiều lệ. Đây là lời thơ dịch khá hay của Phan Kế Bính:
“Trí tiện gặp thời, nên củng dễ,
Sau trăm năm đã trôi qua, biết bao vật đổi sao dời, “phế, hưng mây lớp” mà ba chữ “ẩm hận đa” vẫn làm nhức nhối lòng người. Đó là nỗi cảm hoài vậy… Đó là nỗi cay đắng của người anh hùng thất thế, lỡ bước. Phần “luận” nói lên chí lớn của người ạnh hùng. Hình tượng thơ kì vĩ tráng lệ:
Tẩy bỉnh vô lộ vãn thiên hà”.
Trên đường mưu đồ nghiệp lớn, cha bị Trần Ngỗi giết oan, ông đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, vẫn dãi gió dầm sương, xông pha trận mạc, để phò chúa, cứu nước, mong đem lại thái bình cho dân tộc. “Phù địa trục” (nâng trục đất), “vãn thiên hà” (lôi sông ngân hà xuống) là hai hình ảnh kì vĩ, mang kính thước và tầm vóc vũ trụ, nói lên chí khí và khát vọng anh hùng trong thời loạn. Hai câu thơ hô ứng, đối chọi nhau, tạo nên giọng điệu anh hùng ca đầy ấn tượng. Câu thơ dịch khá hay, lột tả được ý vị cổ điển, trang trọng của vần thơ tráng lệ.
“Vai nghiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch máy”.
Hình ảnh người anh hùng mài gươm dưới ánh trăng đã “mấy độ”, trải qua nhiều năm tháng, mái tóc nay đã bạc, gợi lên màu sắc bi tráng. Trăng đã tà. Tuổi đã già. Thế mà “quốc thù” vần đè nặng tâm hồn nhà thơ:
“Long tuyền” là gươm báu, thanh gươm để giết giặc, trả mối thù nuớc, đem lại thái bình cho đất nước và nhân dân. Đây là hai câu thơ đẹp nhất trong thơ văn Lí Trần, chói sáng “hào khí Đông A”. Đúng như Lí Tử Tấn, một danh sĩ đầu thời Lê đã viết: “Phi hào kiệt chi sĩ bất nâng” (Khóng phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi). Không thể lấy sự thành, bại để luận anh hùng, Đặng Dung là một anh hùng hào kiệt. Bài thơ thấm đượm một tình yêu nước, nhức nhối nỗi đau của người anh hùng lờ bước. Cốt cách thi sĩ lồng trong cốt cách anh hùng.
Đó là tư thế hiên ngang lẫm liệt, cho đến chết vẫn mang nặng mối thù nước không nguôi. Đặng Dung đã “ẩm hận đa”, sự nghiệp “quốc thù vị báo” không thực hiện được. Nhưng khí phách lẫm liệt, lòng yêu nước thiết tha của người anh hùng mãi mãi trường tồn cùng sông núi Đại Việt. Bài thơ “Cảm hoài” cùng với tên tuổi Đặng Dung mãi mãi là bài ca yêu nước chống xâm lăng:
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày!”.
Đó là “di hận” của người anh hùng vận khứ – lỡ vận. Nửa thế kỉ sau, Nguyễn Trãi trong bài thơ “Quan hải” cũng nói về môi “di hận” ây. Đó là nỗi đau muôn thuở:
Anh hùng di hận kỉ thiên niên”.
(Họa phúc có mang mối, đâu phải một ngày,
Bài văn phân tích “Cảm hoài” của Đặng Dung số 10Việt Nam là đất nước có bề dày lịch sử với những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, cũng từ đây mà các cuộc đấu tranh được đi vào văn học như thứ vũ khí đấu tranh mạnh mẽ vô cùng. Trong lịch sử văn học trung đại có một nhà văn nổi tiếng mang tên Đặng Dung, và khi nhắc tới Đặng Dung không thể không nhắc tới “Cảm hoài”, một tác phẩm vô cùng nổi tiếng cho thấy được nỗi đau của người anh hùng chiến bại.
(Việc đời man mác tuổi già thôi
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi)
Một con người luôn mang trong mình tinh thần cao nhất đối với đất nước, đối với dân tộc, luôn dùng tài năng của mình để cống hiến cho đất nước nhưng con người có thể chiến thắng tất cả mọi thứ trừ thời gian, chính thời gian là yếu tố làm cho con người trở nên có giới hạn nhất định, đó chính là giới hạn về tuổi tác, khi đã về già, ở cái độ tuổi xế chiều thì tinh thần, lòng yêu nước, tính trách nhiệm, mong muốn cống hiến đối với ông chỉ có thể tồn tại trong suy nghĩ chứ không thể biến thành hành động được nữa rồi.
Những việc trong thiên hạ còn chưa yên, việc lớn giải phóng dân tộc còn chưa thành, quân xâm lược ngày càng lớn mạnh mà bản thân đã già rồi thì phải làm sao? một câu hỏi bản thân tác giả tự đặt ra cho mình đồng thời cũng tự cảm thấy bất lực trước những việc trong thiên hạ. Để rồi từ đây lấy rượu giải sầu, nâng chén cho say để quên đi những sự thật cay đắng đang hiện hữu ngay trước mắt, sự thật về tuổi già, sự thật về xã hội vẫn đang diễn ra ngoài kia, nhưng có vẻ như hơi men không thể thắng nổi tính trách nhiệm của ông, dù có say thì trong lòng vẫn day dứt một nỗi niềm với đất nước, để rồi từ đó ông nêu cao lên tầm quan trọng của thời cơ
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa!
Tan tành sự thế luống cay ai!)
Ông tự cho rằng thời cơ là yếu tố quyết định để làm nên đại nghiệp, với những kẻ tầm thường mà gặp thời cũng có thể thành công, có thể làm nên kì tích, còn nếu cơ hội không đến thì dù có tài giỏi tới đâu cũng không thể làm nên việc lớn, có là anh hùng đi chăng nữa cũng sẽ thất bại trước những khao khát mong mỏi của bản thân. Dẫu biết thói đời xưa nay vẫn vậy nhưng trong lòng tác giả vẫn có một sự chua xót, đau đớn khi chính bản thân mình vướng vào nỗi đau này, đồng thời nêu ra sự lâm li bi đát của những anh hùng có trí lớn, có tài năng, không thể làm được việc lớn bởi đã hết thời, nhưng trong lòng vẫn mang theo khát vọng của cuộc đời mình
(Phò vua bụng những mong xoáy đất
Một khát vọng của đạo làm quân, khát vọng được phục vụ vua, được cống hiến tài năng của mình giúp vua trị vì đất nước, khát vọng xoay chuyển càn khôn, xoay chuyển đất trời, một khát vọng đẹp của con người có ý trí ngút trời. Một con người mang trong mình đầy đủ phẩm chất, tài năng để có thể đứng lên làm vua nhưng không, ông dùng tài năng đó không phải vì bản thân mà vì dân vì nước, giữ trong mình một lòng trung thành đáng ngưỡng mộ. Không chỉ có thể, ông còn là một người ưa chuộng hòa bình, căm ghét chiến tranh phi nghĩa làm dân tộc lầm than, ông muốn kéo sông Ngân xuống để dòng nước gột rửa những đau thương, mất mát mà con người đang phải gánh chịu nhưng không thể làm được. Cuối cùng sau tất cả tác giả lại trở về với những trăn trở trong lòng.
Kỉ độ Long tuyền đới nguyệt ma
(Đầu bạc giang sơn thù chưa trả
Long tuyền mấy độ bóng trăng so)
Vẫn là sự day dứt đó, day dứt về một nước nhà chưa quét được hết quân thù mà tuổi đã già, tóc đã bạc, day dứt về cái trái ngang giữa tuổi già và khát vọng cống hiến đang cháy hừng hực trong ông, khát vọng được thể hiện qua những lần mài gươm dưới ánh trăng “Long tuyền mấy độ bóng trăng soi”, sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Qua đó thể hiện khí thế hừng hực, một cảm xúc bị dồn nén khi cảm thấy bản thân không thể chiến thắng được cái tuổi già yếu cuối đời.
Qua tác phẩm người đọc có thể thấy được một nỗi buồn to lớn, nỗi buồn của người anh hùng chiến bại, mang trong mình khả năng, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý trí to lớn nhưng vẫn phải khuất phục trước thời gian, trước tuổi già của bản thân, với âm hưởng bi tráng, cùng những câu thơ thể hiện uất hận ngút trời, bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh một người anh hùng của dân tộc mang trong mình hào khí Đông A.
Đăng bởi: Nguyên Đỗ
Từ khoá: Top 10 Bài văn phân tích “Cảm hoài” của Đặng Dung hay nhất
6 Bài Văn Phân Tích Cảnh Ra
Bài văn phân tích số 2
Là một trong những cái nôi văn minh đầu tiên của loài người, nền văn học của Ấn Độ cũng sớm được hình thành và phát triển mạnh mẽ, nhắc đến văn học Ấn Độ chắc hẳn sẽ có nhiều người nhớ đến hai bộ sử thi nổi tiếng Ramayana và Mahabharara. Trải qua nhiều thế kỉ nhưng những cuốn sử thi này vẫn làm say đắm hàng triệu trái tim của độc giả. Đoạn trích Ra- ma buộc tội là một phần trong cuốn Ramayana.
Bàn về vai trò của sử thi Ramayana đối với đời sống tinh thần của người Ấn Độ đã có lời nhận xét rằng: “Chừng nào sông chưa cạn, núi chưa mòn thì sử thi Ramayana còn làm say lòng người và cứu họ ra khỏi tội lỗi”. Đoạn trích Rama buộc tội là một trích đoạn tiêu biểu của cuốn sử thi này,đoạn trích kể về sự kiện Ra-ma sau khi chiến thắng quỷ vương Ra-va-na đã cứu được người vợ của mình là Xita, hai người đã có giây phút đoàn tụ với những sự kiện phức tạp đã diễn ra.
Sau những ngày bị chia cắt khi Xi-ta bị quỷ vương bắt đi, hai vợ chồng Ra- ma và Xi-ta đã được đoàn tụ, nhưng đó không phải phút giây hàn nguyên vợ chồng cảm động mà lại là thời điểm giải quyết những mâu thuẫn, xung đột.
Gặp lại chồng, Xi-ta vô cùng vui mừng, thế nhưng đáp lại sự nhớ thương, chờ mong của nàng thì Ra-ma đối xử với nàng vô cùng lạnh lùng bởi trong Ra-ma luôn tồn tại mối nghi ngờ vì Xi-ta đã bị quỷ vương bắt đi một thời gian, liệu nàng có chung chạ chăn gối với hắn ta không là điều không ai biết. Nghi ngờ danh tiết của vợ nên Ra-ma có ý muốn chối bỏ dù rất yêu thương vợ.
Xi-ta đã hết lời thanh minh nhưng Ra-ma vẫn không chịu tin, cuối cùng nàng đã tìm đến Lửa thần A-nhi để nhờ người chứng minh cho tấm lòng trinh bạch, thủy chung cả nàng. Đoạn trích Ra-ma buộc tội đã thể hiện được thái độ và quan điểm của nhà văn về Ra-ma- một vị vua mẫu mực, lí tưởng của đất nước Ấn Độ và hình tượng người phụ nữ Ấn Độ Xi-ta.
Ra- ma là người quân vương hội tụ được đầy đủ phẩm chất, năng lực của người đứng đầu một nước. Phẩm chất cao quý của chàng được thể hiện rõ nét qua đoạn trích này. Trong cuộc gặp gỡ với Xi- ta dù lòng rất nhớ thương vợ nhưng Ra-ma vẫn tỏ ra lạnh lùng và chối bỏ vợ vì lúc này chàng không chỉ là một người chồng mà nàng còn là một người quân vương, người đứng đầu đất nước, do vậy chàng đã đặt trách nhiệm với quốc gia dân tộc lên trên tình cảm cá nhân, cần suy xét rõ ràng, minh bạch mọi chuyện, dù đó có là vợ mình đi chăng nữa.
Trước đông đảo quần thần và bạn hữu, nếu Ra-ma không xử lí tốt chuyện gia đình thì sẽ gây nên những điều tiếng đáng tiếc, ảnh hưởng đến uy tín của bậc quân vương. Đối với Ra-ma thì uy tín và danh dự của bản thân và gia tộc là điều quan trọng hàng đầu, dù yêu thương vợ nhưng chàng không thể bất chấp tất cả, vượt lên những điều tiếng không hay của dư luận mà đón nàng về cung điện.
Nếu Ra-ma là mẫu quân vương lí tưởng thì Xi-ta lại là hình tượng người phụ nữ lí tưởng của người phụ nữ Ấn Độ xưa, ở nàng hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp: son sắc, thủy chung. Trong cuộc hội ngộ với Ra-ma, không những không có những phút giây đoàn viên hạnh phúc mà nàng đã phải chịu nhiều đau khổ, ê chề từ thái độ lạnh lùng và hành động rũ bỏ của chồng mình là Ra-ma.
Trước những lời nói của Ra- ma, Xi- ta đã vô cùng đau lòng, nàng đau đớn đến nghẹt thở, cảm giác như có sợi dây leo thít chặt vào da thịt. Đặc biệt, những lời hàm nghi của Ra- ma lại được nói trước đông đảo dân chúng và bạn hữu, nàng đã tủi thân, xấu hổ cho số phận của mình. Nàng đã cố gắng minh bạch tấm lòng trong sạch của mình nhưng Ra- ma đều nhẫn tâm phũ bỏ tất cả.
Cuối cùng, không còn cách nào khác, Xi-ta đã phải nhờ đến sự giúp đỡ của thần lửa A- nhi, nàng đã bước lên giàn hỏa thiêu để nhờ thần Lửa chứng minh cho sự trung trinh, trong sạch của mình.
Cảm động trước tấm lòng của nàng, thần lửa A- nhi đã xuất hiện mà chứng minh sự trong sạch của Xi-ta trước tất cả dân chúng, quần thần, bạn hữu. Nhờ vậy mà Ra- ma hiểu được tấm lòng và sự thủy chung của vợ, hai người đã được đoàn tụ thực sự mà không có bất kì khoảng cách nào khác.
Mọi người có mặt ở đó đều cảm động trước hành động dũng cảm và tấm lòng trong sạch của Xi-ta, những tiếc khóc thương của những người xung quanh chính là sự đồng cảm, tấm lòng cảm động của đông đảo mọi người đối với nàng. Hơn nữa, sự chung thủy, son sắc của Xi-ta đã làm cảm động cả thần lửa A-nhi. Sau bao nhiêu sóng gió, cuối cùng nàng cũng vượt qua và chạm tay vào hạnh phúc thực sự.
Bài văn phân tích số 4Bài văn phân tích số 2
Ra-ma buộc tội được trích từ sử thi Ra-ma-ya-na của Ấn Độ, đoạn trích đã tái hiện cảnh tái ngộ đầy bi kịch, éo le của hai vợ chồng Ra-ma và Xi-ta. Qua cách ứng xử, hành động của hai nhân vật sau những ngày xa cách đã phần nào bộc lộ những phẩm chất đẹp đẽ của họ.
Vợ của Ra-ma là Xi-ta bị quỷ vương Ra-va-na bắt đi. Sau cuộc đấu tranh quyết liệt của Ra-ma với quỷ vương, chàng đã cứu được vợ, nhưng lại nghi ngờ sự trong trắng của Xi-ta trong những ngày bên cạnh quỷ vương, cơn ghen tuông nổi lên và bản thân chàng không muốn nhận lại Xi-ta làm vợ mình.
Không gian gặp gỡ giữa hai người là không gian cộng đồng, diễn ra trước sự chứng kiến của tất cả mọi người. Lấy không gian này, Ra-ma nhằm công khai hóa lời buộc tội với vợ, đồng thời thể hiện uy tín và danh dự của một đức vua trong tương lai. Chính bối cảnh này cũng có tác động mạnh mẽ đến ngôn ngữ, tâm lí của hai nhân vật. Ra-ma đứng trên hai tư cách, một là người chồng, hai là tư thế một vị anh hùng phải bảo vệ danh dự của bản thân. Điều đó khiến cho tâm trạng chàng có sự đấu tranh giằng xé giữa lí trí và tình cảm. Xi-ta vô cùng đau đớn, xấu hổ khi bị chính chồng mình buông ra những lời buộc tội trước cộng đồng. Nàng cảm thấy mình bị sỉ nhục. Đây chính là hoàn cảnh thử thách mà hai nhân vật chính phải vượt qua để khẳng định danh dự, phẩm chất của bản thân.
Trước hết về diễn biến tâm trạng của Ra-ma. Sau khi đánh thắng quỷ vương, nếu như Xi-ta khao khát được gặp chồng bao nhiêu thì Ra-ma lại tìm cách trì hoãn cuộc trùng phùng bấy nhiêu. Khi gặp lại vợ trong chàng là hai trạng thái cảm xúc đan xen nhau vừa vui mừng vừa buồn đau. Ngay từ giây phút đầu tiên gặp mặt, Ra-ma đã tỏ thái độ xa cách qua ngôn ngữ: “Hỡi phu nhân cáo quý!”, đồng thời Ra-ma cũng phủ nhận lí do chiến đấu với quỷ vương không phải vì Xi-ta mà bởi chính bản thân Ra-ma mà thôi: “Ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta và cơn giận của ta đã hả”. Chàng muốn thông báo cho Xi-ta và tất cả mọi người về cuộc chiến đã thành công, ngầm khẳng định tài năng của mình trước tất cả dân chúng, còn với Xi-ta chàng cũng muốn gửi tới nàng bức thông điệp về vị trí của Xi-ta đã thay đổi, chàng phải sống với danh dự và bổn phận của một đức vua tương lai.
Mặc dù nói những lời như vậy, nhưng khi buộc tội Xi-ta lòng Ra-ma lại đau như cắt, dù vậy chàng vẫn phải nói những lời lạnh lùng, “nàng muốn đi đâu tùy nàng, ta không ưng có nàng nữa”. Trong lời cáo buộc, Ra-ma chỉ nói đến danh dự, nhân phẩm mà quên đi tình nghĩa vợ chồng. Lí do chàng đưa ra chính là do Xi-ta đã lưu lại quá lâu trong nhà của một kẻ xa lạ. Trong lời buộc tội Ra-ma dùng rất nhiều từ ngữ có tính khẳng định “ta biết chắc điều này” “phải biết chắc điều này…” thể hiện một tâm trạng đau đớn, dường như nói những điều đó ra, lòng Ra-ma còn đau đớn hơn Xi-ta gấp ngàn lần. Trong những lời buộc tội đó ta không chỉ thấy sự lạnh lùng mà còn thấy một trái tim yêu đương cháy bỏng đang ghen tuông, chẳng có người chồng nào lại không ghen khi thấy vợ mình bị bắt bởi một người đàn ông khác.
Nhưng đau đớn nhất là giờ phút Ra-ma phải chứng kiến Xi-ta bước lên giàn lửa, lúc ấy “trông chàng khủng khiếp như thần chết vậy”. Chàng ngồi đó mắt dán xuống đất. Chắc hẳn trong thời khắc đó, Ra-ma đã đau đớn, dằn vặt hơn bất cứ người nào khác. Qua đoạn trích ta có thể thấy Ra-ma hiện lên là một người anh hùng có sức mạnh phi thường, một bậc quân vương trọng danh dự, nhân phẩm, nhưng chàng cũng là người giàu tình nghĩa, luôn yêu thương vợ.
Bị dồn đến bước đường cùng, Xi-ta đưa ra quyết định mang cả tính mệnh của mình để minh chứng cho tấm lòng, phẩm hạnh của bản thân, nàng nhờ thần lửa A-nhi chứng minh cho tấm lòng trong trắng, thủy chung. Đây là hành động dũng cảm, tự tin của Xi-ta về phẩm giá, đức hạnh của mình. Có thể nói chi tiết Xi-ta nhảy vào lửa là chi tiết đẹp nhất, huyền thoại nhất trong đoạn trích. Với hành động đó nàng đã chứng minh được lòng thủy chung, sự trong trắng bản thân trong những ngày bị quỷ vương bắt, đồng thời khẳng định phẩm giá của một một phụ nữ cáo quý, qua đó giải tỏa được mối ghen tuông của Ra-ma.
Đoạn trích thành công trong nghệ thuật tạo dựng tình huống giàu kịch tính qua đó buộc lộ tâm trạng, tính cách của mỗi nhân vật. Nghệ thuật khắc họa tâm lí qua ngôn vật tài tình. Ngôn ngữ, giọng điệu đa dạng, phong phú thể hiện được tâm trạng nhân vật. Xây dựng các chi tiết mang tính huyền thoại vô cùng đặc sắc.
Tác phẩm đã ghi lại thành công diễn biến tâm trạng phức tạp của Ra-ma và Xi-ta trong cuộc gặp gỡ của họ trước cộng đồng. Ra-ma một mặt là người anh hùng trong danh dự, nhân phẩm nhưng đồng thời là người chồng biết yêu, biết ghen tuông. Xi-ta lại là điển hình cho người phụ nữ có tình yêu sâu sắc, sự thủy chung và ý thức về danh dự. Hai nhân vật là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp con người Ấn Độ.
Bài văn phân tích số 4
Bài văn phân tích số 5Bài văn phân tích số 4
Ra-ma không thế “nhận nàng về”, “không ưng có nàng nữa” vì nàng đã lưu lại tại nhà một kẻ xa lạ, vì Ra-va-na với “đôi mắt tội lỗi… hau háu nhìn khắp người nàng” nghĩa là nàng thất thân với hắn, cho nên Ra-ma phải nghĩ đến “gia đình cao quý” đã sinh ra mình.
Tóm lại, Ra-ma vẫn còn yêu Xi-ta xinh đẹp nhưng vì danh dự, nhân phẩm của người anh hùng, của dòng họ cao quý mà chàng phải buộc tội Xi-ta, chấm dứt quan hệ vợ chồng với nàng: “Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu thì tùy nàng, ta không ưng có nàng nữa”. Ra-ma cảm thấy xấu hố bị xúc phạm; khi trông thấy Xi-ta thì “không chịu nổi”, “chẳng khác ánh sáng với người bị đau mắt”. Ra-ma ghen tuông buộc tội không phải vì mù quáng mà trái lại, ghen tuông và buộc tội vì nhân phẩm, danh dự, một nét tính cách của con người thiện của đẳng cấp Kơxatrya cao quý trong xã hội Ấn Độ thời đại cổ đại.
Nàng Xi-ta được miêu tả trong chiều sâu của bi kịch về tình yêu và danh dự. Nàng đau khổ vì bị oan, bị xúc phạm. Nàng “đau đớn nghẹn thở”. Nàng xấu hổ cho số kiếp của nàng”, nàng muốn chết ngay “muốn tự chôn vùi cả cái hình hài của mình”. Nàng vô cùng đau đớn trước những lời buộc tội của Ra-ma, nàng cảm thấy hình như muôn nghìn mũi tên “xuyên vào trái tim nàng”. Nàng khóc, “nước mắt nàng đổ ra như suối”.
Xi-ta đoan trang và bình tĩnh bác bỏ mọi lời buộc tội của Ra-ma. Nàng khẳng định: “Trái tim thiếp đây, thuộc về chàng”. Chàng chưa hiểu được thiếp qua tình yêu và tâm hồn thiếp. Chàng tự hào về dòng dõi cao quý thì thiếp có kém gì: “đất là mẹ của thiếp”. Nếu Ra-ma mỉa mai gọi Xi-ta là “phu nhân cao quý” thì Xi-ta cũng đàng hoàng đáp lại: “Hỡi đức vua” và trách “cớ sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới thiếp?”.
Xi-ta nhảy vào giàn hỏa thiêu là một cảnh vô cùng bi tráng. Ai đã từng mục kích điệu múa “Nàng Xi-ta”? Ra-ma “khủng khiếp như Thần chết!”. Các thánh thần tự hào nhìn Xi-ta nhảy vào lửa “chẳng khác nào một đồ cúng trong lễ tế sinh”. Đông đảo phụ nữ thì “chẳng khác nào một đồ cúng trong lễ tế sinh”. Đông đảo phụ nữ thì “kêu khóc thảm thương”. Loài ma quỷ như Va-na-ra, Paksaxa cũng “kêu khóc vang trời”. Hình ảnh Xi-ta đàng hoàng tự tin. Nàng “lượn quanh” Ra-ma như để chào vĩnh biệt. Nàng lạy chư thần cao quý thiêng liêng. Nàng cất lời nguyền với thần A-nhi: khẳng định mình bị oan, một phụ nữ trinh tiết bị coi như một kẻ gian dối; tự hào về lòng trong trắng thủy chung trong tình yêu; cúi xin Thần “bảo vệ con”, “phù hộ con”. Ta hãy nghe lời nguyện cầu của nàng Xi-ta: “Nếu con trước sau một lòng dạ với Ra-ma thì cúi xin Thần hãy tìm hét cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối; nhưng nếu con trong trắng xin thần A-nhi phù hộ cho con”.
Đọc sử thi Ra-rna-ya-na ta như thấy ngọn lửa sáng rực bừng ánh mặt trời, nàng Xi-ta lộng lẫy kiều diễm múa như bay theo ánh lửa, thần lửa A-nhi minh chứng và cứu sống nàng. Ra-ma dang đôi cánh tay đón Xi-ta, nước mắt chan hòa sung sướng, vừa ân hận, vừa tự hào.
Bài văn phân tích số 1Bài văn phân tích số 5
Ra-ma-ya-na là thiên sử thi Ấn Độ nổi tiếng thế giới, ra đời vào khoảng thế kỉ thứ 3 trước Công Nguyên. Tác phẩm liên tục được nhiều thế hệ tu sĩ – thi nhân bổ sung về nội dung, trau chuốt về nghệ thuật và đạo sĩ Van-mi-ki là người hoàn thiện cuối cùng.
Đoạn trích Ra-ma buộc tội kể về sự kiện hoàng tử Ra-ma sau khi hạ gục quỷ vương Ra-va-na đã giành lại được người vợ yêu quý là nàng Xi-ta kiều diễm. Vợ chồng gặp lại nhau, Xi-ta vui mừng khôn xiết. Nhưng hoàng tử Ra-ma nghi ngờ vợ mình không giữ được trọn vẹn danh tiết trong thời gian bị quỷ Ra-va-na bắt cóc nên đã tuyên bố từ bỏ nàng. Xi-ta không thể thanh minh nên đành bước lên dàn hoả thiêu, nhờ thần Lửa A-nhi chứng giám cho đức hạnh trung trinh của mình. Qua nội dung đoạn trích, các tác giả đã thể hiện quan điểm về Vị vua mẫu mực (Ra-ma) và về người phụ nữ lí tưởng (Xi-ta) của dân tộc Ấn Độ cổ xưa.
Có thể nổi Ra-ma là nhân vật hội tụ đẩy đủ những nét tính cách của một vị vua anh hùng như ao ước của dân chúng thời đại đó. Tính cách cao quý của chàng được thể hiện rõ trong mọi tình huống yà tình huống ở đoạn trích này là khá đặc biệt.
Theo quy luật tâm lí thông thường thì lẽ ra gặp lại vợ sau một thời gian dài xa cách Ra-ma phải hết sức vui mừng và niệm vui to lớn ấy sẽ chi phối mọi suy nghĩ cùng hành động của chàng. Thế nhưng Ra-ma lại không như vậy. Chàng nói với Xi ta: Hỡi phu nhân cao quý, Ta đã đưa nàng tới đây sau khi đã đánh bại kẻ thù. Ta đã làm tất cả bằng khả năng của mình. Ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta và cơn giận của ta đã hả. Ngày hôm nay, ai nấy đều đả được chứng kiến tài nghệ của ta. Ta đã làm tròn lời hứa và giờ đây không còn gì vướng mắc với chính mình. Nàng đã bị gã Rắc-sa-xa tâm địa xảo trá bắt cóc khi vắng mặt ta, đó là do số phận của nàng xui nên, nhưng ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống. Kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra trả thù là kẻ tầm thường…
Rõ ràng là khẩu khí của người anh hùng tài ba và coi trọng danh dự hơn cả mạng sống của bản thân. Ra-ma đã chiến đấu và chiến thắng quỷ vương Ra-va-na trước hết là vì danh dự dòng dõi cao quý của mình, vốn là người thẳng thắn, trung thực, chàng không giấu diếm suy nghĩ về người vợ mà chàng vừa giành lại được từ tay quỷ vương:… Phải biết chắc điều này: chẳng phải vì nàng mà ta đã đánh thắng kẻ thù với sự giúp đỡ của bạn bè. Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta, để xóa bỏ vết ô nhục, để bảo vệ uy tín và danh dự của dòng họ lẫy lừng tiếng tăm của ta. Ta làm điều đó chính là để chứng tỏ ta không thuộc về một gia đình bình thường. Nay ta phải nghi ngờ tư cách của nàng, vì nàng đã lưu lại lâu trong nhà một kẻ xa lạ. Giờ đây, nàng đang đứng trước mặt ta, nhưng trông thấy nàng, ta không chịu nổi, chẳng khác nào ánh sáng với người bị đau mắt. Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu thì tuỳ nàng, ta không ưng có nàng nữa. Người đã sinh trưởng trong một gia đình cao quý có thế nào lại lấy về một người vợ từng sống trong nhà kẻ khác, đơn giản chỉ vì mụ ta là một vật để yêu đương ? Nàng đã bị quấy nhiễu khi ở trong vạt áo của Ra-va-na, đôi mắt tội lỗi của hắn đã hau háu nhìn khắp người nàng, vậy làm sao ta có thể nhận nàng về khi nghĩ tới gia đình cao quý đã sinh ra ta?
Cuộc gặp gỡ giữa Ra-ma và Xi-ta không chỉ có hai người mà diễn ra trước đông đảo anh em, bạn hữu và dân chúng. Vì thế Ra-ma không thể chỉ cư xử với tự cách của một người chồng mà còn với tư cách của một vị anh hùng vừa chiến thắng kẻ thù một cách vinh quang và cao hơn nữa là tư cách của một đấng quân vương. Do vậy ta không thể trách Ra-ma quá lạnh lùng, tàn nhẫn, vì con người của giai cấp, con người của xã hội trong chàng buộc chàng phải cư xử như vậy với người vợ mà chàng trân trọng gọi là phu nhân cao quý.
Suy nghĩ của hoàng tử Ra-ma tiêu biểu cho quan điểm đạo đức của giai cấp quý tộc Ấn Độ thời đó. Tuy nhiên, nó cũng có những điều gần gũi với suy nghĩ của phần lớn đàn ông trong xã hội phong kiến với rất nhiều ràng buộc khắt khe. Đối với Ra-ma thì danh dự của bản thân, gia đình và dòng tộc là quan trọng nhất, cho nên dẫu yêu thương người vợ hiển thục, xinh đẹp đến mấy đi chăng nữa thì chàng vẫn phải chối từ vì không thể vượt lên trên dư luận.
Những lời nói của hoàng tử Ra-ma khiến Xi-ta tan nát cả cõi lòng; Nàng đau đớn đến nghẹt thở, như một dây leo bị vòi voi quật nát. Nghe những lời tố cáo chưa từng có, trước mặt đông đủ mọi người, Gia-na-ki xấu hổ cho số kiếp cửa nàng. Nàng muốn tự chôn vùi cả hình hài thân xác của mình. Mỗi lời nói của Ra-ma xuyên vào trái tim nàng như một mũi tên. Nước mắt nàng đổ rà như suối. Lấy tà áo lau nước mắt, rồi bằng giọng nghẹn ngào, nức nở, nàng nói: Cớ sao chàng lại dùng những lời lẽ gay gắt khó tả như vậy đối với thiếp, giống như một kẻ thấp hèn chửi mắng một con mụ thấp bèn? Thiếp đâu phải là người như chàng tưởng ! Thiếp có thể lấy tư cách của thiếp ra mà thề, hãy tin vào danh dự của thiếp. Suy từ hành vi của loại phụ nữ thấp hèn, chàng đã ngờ vực tất cả giới phụ nữ, nhưng như thế đâu có phải. Nếu chàng có hiểu biết thiếp chút đỉnh thì xin hãy từ bỏ mối ngờ vực không căn cứ đó đi…
Trong đau đớn và tủi nhục vì bị chổng nghi ngờ và từ bỏ, nàng Xi-ta xinh đẹp vẫn khẳng khái lạ lùng. Giống như hoàng tử Ra-ma, nàng cũng coi danh dự là điều cao quý nhất. Nàng không ngại ngẩn so sánh chàng với những kẻ thấp hèn vì nặng cho rằng chàng không nên nói những lời ngờ vực không căn cứ như vậy với nàng – một con người có dòng dõi cao quý khống kém gì chàng, bởi nàng chính là con gái của thần Đất Mẹ Pri-thi-vi được tôn thờ. Nàng (rách móc Ra-ma: Vì không thể suy xét cho đúng đắn, chàng đã không hiểu được bản chất của thiếp. Chàng không nghĩ đến vì sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới thiếp. Tình yêu của thiếp, lòng trung thành của thiếp nay xem ra hoàn toàn vô ích.
Trong cơn tuyệt vọng trước thái độ khó lay chuyển của hoàng tử Ra-ma Xi-ta chi còn cách duy nhất là nhờ thần Lửa A-nhi minh oan cho mình: Nếu con trước sau một lòng một dạ với Ra-ma thì cúi xin thần hãy tìm cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối, nhưng nếu con trong trắng, xin thần A-nhi phù hộ cho con. Dứt lời, nàng dũng cảm bước vào ngọn lửa đang rừng rực cháy của giàn hỏa thiêu.
Sự kính phục, ngưỡng mộ và tiếc thương của mọi người chứng kiến cảnh đó được miêu tả rất xúc động: Ai nấy, già cũng như trẻ, đau lòng đứt ruột xem nàng Gia-na-ki đứng trong giàn hỏa. Trước mặt mọi người, trang tuyệt thế giai nhân đó nạp mình cho lửa. Các bậc thánh, các chư thần nhìn Gia-na-ki bước vào lửa, chẳng khác một lễ vật trong lễ tế sinh.
Thấy nàng như vậy, như một thiên thần bị đuổi khỏi trời do một thần chú nguyền rủa, các phụ nữ bật ra tiếng kêu khóc thảm thương. Cả loài Rắc-sa-xa lẫn loài Va-na-ra cùng kêu khóc vang trời trước cảnh tượng đó.
Như vậy là đức hạnh trung trinh cùng lòng dũng cảm tuyệt vời của nàng Xi-ta đã làm chấn động cả thần thánh, con người và ma quỷ. Tất thảy đểu rơi lệ trước nỗi oan của nàng. Cuối cùng, đúng như lời cầu xin của Xi-ta, thần Lửa A-nhi đã giải oan và bảo vệ nàng nguyên vẹn.
Đoạn trích Ra-ma buộc tội giống như một màn kịch ngắn mà kịch tính được đẩy lên cao độ. Hai nhân vặt chính là Ra-ma và Xi-ta đều bị đặt trước những thử thách ngặt nghèo, đòi hỏi sự lựa chọn quyết liệt, bộc lộ sâu sắc cá tính và bản chất của mình. Hoàng tử Ra-ma đem hết sức mạnh và tài năng để chiến đấu với quỷ vương Ra-va-na để giành lại người vợ yêu quý, nhưng chàng cũng dám hi sinh tình yêu vì danh dự, bổn phận của một người anh hùng, một đức vua mẫu mực. Nàng Xi-ta xinh đẹp, trong trắng cũng là hình ảnh của một người phụ nữ lí tưởng. Nàng đã can đảm bước vào lửa để chứng minh tình yêu tha thiết cùng đức hạnh thủy chung của mình đối với hoàng tử Ra-ma cao quý.
Bài văn phân tích số 3Bài văn phân tích số 1
Đoạn “Ra-ma buộc tội” trích trong khúc ca thứ 6, chương 79 sử thi Ra- ma -ya – na. 78 chương trước kể lại dòng dõi, cuộc đời của Ra-ma, 13 năm đi đày và cuộc chiến tranh đánh thắng quỷ vương Ra-va-na để cứu nàng Xi-ta xinh đẹp. Lúc giải phóng đảo Lan-ka, Ra-ma cùng đoàn quân ca khúc khải hoàn thì hạn đi đày 13 năm gần kết thúc. Bỗng Ra-ma nổi cơn ghen tuông dữ dội. Trong chương 79, Ra-ma dùng những lời lẽ nặng nề, gay gắt buộc tội Xi-ta. Nghi ngờ nàng về sự trong trắng, thúy chưng của nàng Xi-ta bước vào giàn lửa của thần An-nhi để chứng minh tất cả… Ra-ma chia tay các chiến hữu. chàng cùng em trai và vợ dùng chiếc thiên xa bay về kinh đô Kô-sa-la…
Chương 79 khắc họa thêm một nét đẹp về con người thiện của đẳng cấp Kơxatrya (vương công, quý tộc, võ sĩ) và đức nghĩa trung hậu, đoan trang của người phụ nữ cao quý.
Khi Xi-ta đã khiêm nhường đứng trước Ra-ma, chàng nói với vợ một cách mỉa mai: “Hỡi phu nhân cao quý”. Quan hệ vợ – chồng hầu như không còn nữa.
Cuộc giao tranh đã kết thúc, theo Ra-ma đó là nghĩa vụ và tài năng đã hoàn thành: “Ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống” – nghĩa là nàng bị Ra-va-na bắt cóc chứ không phải đi theo hắn, “cơn giận ta đã hả, và cơn ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta”. Ra-ma đã sống vì một nguyên lí đạo đức của đẳng cấp Kơxatrya của mình: “kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra để trả thù, là kẻ tầm thường”. Ra-ma cũng dành những lời tốt đẹp nhất để ca ngợi Ha-nu-man và Vi-phi-sa-na – hai chiến hữu tài ba, cao cả của mình.
Trước nhan sắc của Xi-ta: “khuôn mặt bông sen”, “những cuộn tóc cuộn sóng” và những giọt lệ của nàng, lòng Ra-ma “đau như cắt”, nghĩa là chàng vẫn say đắm Xi-ta. Nhưng danh dự là trên hết, là tất cả, bởi lẽ người anh hùng “sợ tai tiếng”. Phải kết thúc chiến tranh là vì nhân phẩm, là để “xóa bò vết ô nhục vì sợ uy tín và danh dự của dòng họ lừng lẫy tiếng tăm của mình”.
Nàng Xi-ta
Nàng đau khổ vì bị oan, bị xúc phạm. Nàng “đau đớn nghẹn thở”. Nàng xấu hổ cho số kiếp của nàng”, nàng muốn chết ngay “muốn tự chôn vùi cả cái hình hài của mình”. Nàng vô cùng đau đớn trước những lời buộc tội của Ra-ma, nàng cảm thấy hình như muôn nghìn mũi tên “xuyên vào trái tim nàng”. Nàng khóc, “nước mắt nàng đổ ra như suối”.
Xi-ta nhảy vào giàn hỏa thiêu là một cảnh vô cùng bi tráng. Ai đã từng mục kích điệu múa “Nàng Xi-ta”? Ra-ma “khủng khiếp như Thần chết!”. Các thánh thần tự hào nhìn Xi-ta nhảy vào lửa “chẳng khác nào một đồ cúng trong lễ tế sinh”. Đông đảo phụ nữ thì “chẳng khác nào một đồ cúng trong lễ tế sinh”. Đông đảo phụ nữ thì “kêu khóc thảm thương”. Loài ma quỷ như Va-na-ra, Paksaxa cũng “kêu khóc vang trời”.
Hình ảnh Xi-ta đàng hoàng tự tin. Nàng “lượn quanh” Ra-ma như để chào vĩnh biệt. Nàng lạy chư thần cao quý thiêng liêng. Nàng cất lời nguyền với thần A-nhi: khẳng định mình bị oan, một phụ nữ trinh tiết bị coi như một kẻ gian dối; tự hào về lòng trong trắng thủy chung trong tình yêu; cúi xin Thần “bảo vệ con”, “phù hộ con”.
Ta hãy nghe lời nguyện cầu của nàng Xi-ta: “Nếu con trước sau một lòng dạ với Ra-ma thì cúi xin Thần hãy tìm hét cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối; nhưng nếu con trong trắng xin thần A-nhi phù hộ cho con”.
Bài văn phân tích số 3
Bài văn phân tích số 6Bài văn phân tích số 3
Nếu Ra-ma là mẫu quân vương lí tưởng thì Xi-ta lại là hình tượng người phụ nữ lí tưởng của người phụ nữ Ấn Độ xưa, ở nàng hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp: son sắc, thủy chung. Trong cuộc hội ngộ với Ra-ma, không những không có những phút giây đoàn viên hạnh phúc mà nàng đã phải chịu nhiều đau khổ, ê chề từ thái độ lạnh lùng và hành động rũ bỏ của chồng mình là Ra-ma. Trước những lời nói của Ra- ma, Xi- ta đã vô cùng đau lòng, nàng đau đớn đến nghẹt thở, cảm giác như có sợi dây leo thít chặt vào da thịt. Đặc biệt, những lời hàm nghi của Ra- ma lại được nói trước đông đảo dân chúng và bạn hữu, nàng đã tủi thân, xấu hổ cho số phận của mình. Nàng đã cố gắng minh bạch tấm lòng trong sạch của mình nhưng Ra- ma đều nhẫn tâm phũ bỏ tất cả. Cuối cùng, không còn cách nào khác, Xi-ta đã phải nhờ đến sự giúp đỡ của thần lửa A- nhi, nàng đã bước lên giàn hỏa thiêu để nhờ thần Lửa chứng minh cho sự trung trinh, trong sạch của mình.
Cảm động trước tấm lòng của nàng, thần lửa A- nhi đã xuất hiện mà chứng minh sự trong sạch của Xi-ta trước tất cả dân chúng, quần thần, bạn hữu. Nhờ vậy mà Ra- ma hiểu được tấm lòng và sự thủy chung của vợ, hai người đã được đoàn tụ thực sự mà không có bất kì khoảng cách nào khác. Mọi người có mặt ở đó đều cảm động trước hành động dũng cảm và tấm lòng trong sạch của Xi-ta, những tiếc khóc thương của những người xung quanh chính là sự đồng cảm, tấm lòng cảm động của đông đảo mọi người đối với nàng. Hơn nữa, sự chung thủy, son sắc của Xi-ta đã làm cảm động cả thần lửa A-nhi. Sau bao nhiêu sóng gió, cuối cùng nàng cũng vượt qua và chạm tay vào hạnh phúc thực sự.
Qua đoạn trích Ra- ma ta có thấy được những khát vọng của người Ấn Độ và mẫu hình người anh hùng và người phụ nữ lí tưởng của thời đại bấy giờ, qua đoạn trích ta cũng hiểu được phần nào vì sao mà sử thi Ramayana lại có thể làm say đắm nhiều thế hệ đến vậy.
Đăng bởi: Duyên Nguyễn
Từ khoá: 6 Bài văn phân tích cảnh Ra-ma buộc tội (Ngữ văn 10) hay nhất
Phân Tích Nhân Vật Lão Hạc ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Lão Hạc ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Bài Viết Đặc Sắc Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Của Nhà Văn Nam Cao.
Lập dàn ý phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc sẽ là nội dung định hướng để triển khai bài viết. Tham khảo mẫu phân tích nhân vật lão Hạc dàn ý chi tiết như sau:
I. Mở bài phân tích nhân vật lão Hạc:
Giới thiệu khái quát về nhà văn Nam Cao, truyện ngắn Lão Hạc.
Giới thiệu về nội dung cần phân tích – nhân vật lão Hạc – nhân vật trung tâm của tác phẩm.
II. Thân bài phân tích nhân vật lão Hạc:
1.Phân tích hoàn cảnh sống của nhân vật lão Hạc:
Vợ mất sớm, một mình nuôi con khôn lớn.
Tài sản trong nhà không có gì ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ và một con chó.
Không có tiền cho con trai cưới vợ, người con trai bỏ đi đồn điền cao su, bỏ lại lão sống một mình.
Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng – kỉ vật mà anh con trai để lại, không chỉ là một con vật mà còn giống như một người bạn.
Hoàn cảnh vô cùng khó khăn, khổ cực.
2.Phân tích vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật lão Hạc:
a. Một con người hiền lành, nhân hậu và giàu tình yêu thương:
-Một người cha hết mực yêu thương con:
Day dứt vì không có tiền lo cho con lấy vợ.
Kiên quyết giữ lại mảnh vườn là của hồi môn của con dù trong nhà không có gì ăn.
-Yêu thương con chó vàng, coi nó là một người bạn:
Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó cùng ăn.
Khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận.
Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà.
Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp.
Đối xử giống như với một con người.
-Quyết định bán cậu Vàng: vô cùng khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định một việc trọng đại trong đời.
-Diễn biến tâm trạng sau khi bán chó: Sáng hôm sau, lão Hạc sang nhà ông giáo kể lại toàn bộ sự việc.
Cố làm ra vẻ vui mừng: “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ”, nhưng thực ra lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước.
“Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra”
Lão hu hu khóc…
Tự trách bản thân mình đã già rồi còn đi lừa một con chó: “Khốn nạn… Ông giáo ơi!… như thế này à?”
Chua chát bảo với ông giáo: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta phải hóa kiếp cho nó…”
Lão cười và ho sòng sọc, Lão nói xong lại cười đưa đà… Nụ cười dường như để nén đi nỗi đau đơn khi mất đi “người bạn” duy nhất.
Nam Cao đã khắc họa chân thực nỗi đau khổ, day dứt của Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng
b. Một con người trong sạch, giàu lòng tự trọng
Quá túng quẫn, chỉ ăn củ chuối, sung luộc…, nhưng lại từ chối “một cách gần như hách dịch” những gì ông giáo ngầm cho lão.
Lão đến nhờ cậy ông giáo hai việc: Trông nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó. Mang hết tiền dành dụm được nhờ ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ ông giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình.
Lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối rằng dạo này có con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão sẽ mời hắn uống rượu. Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử.
Hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết”. Cái chết dữ dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.
Qua nhân vật, Nam Cao tố cáo xã hội đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khốn cùng.
3.Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong xây dựng nhân vật lão Hạc:
Ngôi kể thứ nhất tự nhiên, linh hoạt
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại…
III. Kết bài phân tích nhân vật lão Hạc:
Khái quát chung lại về nhân vật lão Hạc
Đánh giá của người viết về nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Tóm Tắt Văn Bản Lão Hạc 🍀 17 Bài Mẫu Ngắn Hay Nhất
Hình tượng người nông dân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 được khai thác một cách sâu sắc và triệt để trong văn học. Qua những trang văn của các tác giả, những con người với số phận bất hạnh nhưng ngời sáng những phẩm chất cao quý được thể hiện một cách rõ nét.
Nếu Ngô Tất Tố thành công với việc khắc họa hình tượng nhân vật chị Dậu, một người phụ nữ yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh nhưng cũng có những phút giây vùng lên để chống lại cái xấu, cái ác trong “Tắt đèn” thì Nguyễn Công Hoan lại xây dựng hình ảnh một anh Pha dám vùng lên đánh trả lại bọn cường hào ác bá trong “Bước đường cùng”.
Và Nam Cao với hình tượng nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên đã khắc họa thành công hình tượng người nông dân với số phận nghèo khổ, bần cùng nhưng lương thiện, chất phác và rất giàu lòng tự trọng.
Lão Hạc là một truyện ngắn hay và xuất sắc nhất của Nam Cao giai đoạn trước cách mạng tháng tám, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Không chỉ là cái chết đầy ám ảnh của một kiếp người tàn mà ở đó ta thấy được nhiều vẻ đẹp đáng quý của một con người giữa cái thời đói khổ khốn nạn.
Ở nhân vật Lão Hạc, đó là tấm lòng thương yêu con sâu sắc, chịu chết để giữ vườn cho con, là lối sống ân nghĩa, thủy chung với cả con chó, là sự lương thiện, thực thà của một con người dù đói chứ cũng không bao giờ táy máy của ai, là tấm lòng tự trọng, chu toàn không muốn phiền lụy đến một ai sau khi chết. Một đời người lắm hy sinh, lắm tốt đẹp như thế nhưng Lão Hạc vẫn phải chịu nhiều nghiệt ngã đớn đau, vì trời bắt tội những kẻ nghèo, thật khiến người ta không khỏi bùi ngùi, xót xa.
Mời bạn tham khảo 🌠 Sơ Đồ Tư Duy Lão Hạc Nam Cao 🌠 12 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 – 1945. Qua nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh tiêu điều, xơ xác của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Sự đói khổ ám ảnh nhà văn bởi nó ảnh hưởng không ít tới nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thảm, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng.
Truyện ngắn Lão Hạc thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Trong đó, nhân vật chính là một nông dân gặp nhiều nỗi bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương con và có lòng tự trọng.
Vợ mất sớm, lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão sẽ sung sướng biết dường nào nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã bị phụ tình chỉ vì quá nghèo, không đủ tiền cưới vợ.
Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau của con khi anh nghe lời cha, không bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con, lão càng xót xa đau đớn vì không giúp được con thỏa nguyện, đến nỗi phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền đất đỏ mãi tận Nam Kì. Mỗi khi nhắc đến con, lão Hạc lại rơi nước mắt.
Lão Hạc rất quý con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi là cậu Vàng và cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Suốt ngày, lão thầm thì to nhỏ với con Vàng. Với lão, con Vàng là hình bóng của đứa con trai yêu quý, là người bạn chia sẻ cô đơn với lão. Vì thế nên bao lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi.
Nhưng nếu vì nhớ con mà lão Hạc không muốn bán cậu Vàng thì cũng chính vì thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Lão đã tính chi li mỗi ngày cậu ấy ăn thế bỏ rẻ cũng mất hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy tiền đâu mà nuôi được… Thôi bán phắt đi, đỡ đồng nào hay đồng ấy. Bây giờ, tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của con. Tiêu lắm chỉ chết nó!
Thế là vì lo tích cóp, giữ gìn cho con trai chút vốn mà lão Hạc đành chia tay với con chó yêu quý. Đã quyết như thế nhưng lão vẫn đau đớn, xót xa. Lão kể cho ông giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ dằn vặt vì cảm thấy mình đã đánh lừa một con chó. Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi lên.
Trước đây, lão dằn vặt mãi về chuyện vì nghèo mà không cưới được vợ cho con, thì bây giờ cũng chỉ vì nghèo mà lão thêm day dứt là đã cư xử không đàng hoàng với một con chó. Lão cố chịu đựng những nỗi đau đớn ấy cũng chỉ nhằm một mục đích là giữ gìn chút vốn cho con.
Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con chính là cái chết của lão. Ông lão nông dân nghèo khổ ấy đã tính toán mọi đường: Bây giờ lão chẳng làm gì được nữa… Cái vườn này là của mẹ nó chắt chiu dành dụm cho nó, ta không được ăn vào của nó… Ta không thể bán vườn để ăn… Chính vì thương con, muốn giữ cho con chút vốn giúp nó thoát khỏi cảnh nghèo mà lão Hạc đã chọn cho mình cái chết.
Đó là một sự chọn lựa tự nguyện và dữ dội. Nghe những lời tâm sự của lão Hạc với ông giáo, không ai có thể kìm nổi lòng xót thương, thông cảm và khâm phục. Một con người vì nghèo đói mà bất hạnh đến thế là cùng! Một người cha thương con đến thế là cùng!
Không chỉ có vậy, qua từng trang truyện, chúng ta còn thấy lão Hạc là người đôn hậu, chất phác. Suốt đời, lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng. Trong làng chỉ có ông giáo là người có học nên lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự. Lời lẽ của lão Hạc đối với ông giáo lúc nào cũng lễ phép và cung kính. Đó là cách bày tỏ thái độ kính trọng người hiểu biết, nhiều chữ của một lão nông.
Cảnh ngộ lão Hạc đã đến lúc túng quẫn nhưng lão tự lo liệu, xoay xở, cố giữ nếp sống trong sạch, tránh xa lối đói ăn vụng túng làm càn. Thậm chí, lão kiên quyết từ chối sự giúp đỡ chỉ vì lòng thương hại.
Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo viết văn tự để giữ hộ con trai mình mảnh vườn và gửi ông giáo 30 đồng để lo chôn cất. Lão không muốn mọi người phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại chẳng oán trách lão sao? Không phiền lụy đến mọi người, đó cũng là cách để giữ gìn phẩm giá. Thì ra ông lão có vẻ ngoài gàn dở ấy lại có phẩm chất đáng quý biết nhường nào!
Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc chúng ta nhớ đến những con người nghèo khó mà trong sạch với một tình cảm trân trọng và yêu quý.
Đọc nhiều hơn 🌻 Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Nhân Vật Lão Hạc 🌻 15 Bài Văn Hay
Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng người đọc bao nỗi xót thương về một con người dù sống trong hoàn cảnh nghèo khó, túng quẫn nhưng vẫn giữ tấm lòng trong sạch đáng quý.
Ông là một lão nông nghèo khổ, tài sản của ông chỉ có ba sào vườn, một túp lều và một con chó vàng. Hoàn cảnh của ông thật bất hạnh, vợ mất sớm từ lâu, một mình ông “gà trống nuôi con” nhưng vì không đủ tiền cưới vợ cho con nên con trai ông phẫn uất bỏ đi đồn điền cao su biền biệt. Đó là nỗi đau khiến ông luôn day dứt khi không thể lo cho con cuộc sống đầy đủ. Do đó, từ ngày con đi, lão tích cóp dành dụm và cố gắng giữ trọn mảnh vườn để khi về con trai có tiền lấy vợ.
Vắng con, ông chỉ có cậu Vàng làm bạn, ông coi nó như người bạn thân thiết, như con cháu của mình. Ông trò chuyện, mắng yêu nó, nói với nó như nói với một đứa bé. Nhưng trận ốm yếu kéo dài cùng trận bão to đã khiến cuộc sống của ông càng lúc khó khăn. Lão không nuôi nổi nó nữa và sợ phải tiêu lạm vào số tiền dành dụm cho con. Đó là nỗi đau đớn của lão. Bởi vậy lão cứ đắn đo, do dự mãi khi quyết định bán chó, lão khóc mà “đôi mắt ầng ậc nước”.
Cả đời sống trung thực, lương thiện mà giờ đây ông phải lừa dối, ông thấy lương tâm đau nhói khi nhìn ra trong đôi mắt con chó bất ngờ bị trói có cái nhìn trách móc. Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Nam Cao đã diễn tả được nỗi khổ tâm, dằn vặt, niềm xót thương của lão Hạc với cậu Vàng lên đến tột độ. Phải là người có trái tim vô cùng nhân hậu thì con người mới có tâm trạng đau đớn đến thế, mới cảm thấy có lỗi với một con chó đến mức như vậy.
Cũng chính bởi sự hối hận đó, lão đã chọn cho mình cái kết cái kết bi thảm: ăn một liều bả chó để tự tử, đó là cái chết dữ dội và thê thảm. Lão có quyền chọn cho mình cách kết thúc nhẹ nhàng hơn thế nhưng lão đã chọn cách đau đớn này, phải chăng vì những dằn vặt khi lão lừa bán cậu Vàng.
Câu chuyện khép lại nhưng mở ra trong lòng người đọc bao nỗi xót thương. Trong cảnh đời nghèo khó, bất hạnh ấy ta lại thấy lấp lánh những nét đẹp trong nhân cách lão Hạc: một người cha hết lòng vì con, sẵn sàng chấp nhận cái chết để hi sinh cho con; một người nông dân dù đến bước đường cùng vẫn giữ trọn nhân cách của mình “chết trong còn hơn sống đục”.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Suy Nghĩ Của Em Về Nhân Vật Lão Hạc 🌟 13 Bài Văn Hay Nhất
Luyện tập viết bài văn phân tích nhân vật lão Hạc ngắn gọn sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
Cùng với Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố, Nam Cao là tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán, luôn hướng về người nông dân, phản ánh hiện thực đời sống của người nông dân trước Cách mạng. Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm đặc sắc của Nam Cao, mà trong đó, hình tượng nhân vật lão Hạc như một điểm son trong sự nghiệp sáng tác của ông.
Nam Cao luôn trăn trở về số phận của người nông dân lương thiện trong xã hội phong kiến. Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên là chân dung của một lão nông Việt Nam đáng thương và đáng kính. Số phận của Lão Hạc thật đáng thương bởi cái nghèo nàn, túng thiếu. Vợ mất sớm, lão dồn tình thương nuôi con khôn lớn. Khi đứa con trai đến tuổi lấy vợ, lão tính chuyện cưới vợ cho con, nhưng vì nghèo túng mà người ta lại thách cưới nặng quá nên con trai không cưới được vợ.
Thất vọng, đứa con bỏ nhà ra đi làm phu đồn điền ở Nam Kì. Khi con đi rồi, lão cô đơn, sống trong hiu quạnh. Bấy giờ, chỉ có con Vàng là nguồn vui của lão. Cậu Vàng được lão chăm sóc chu đáo. Lão xem cậu Vàng như một đứa trẻ cần sự chăm sóc, yêu thương. Lão nhân hậu ngay cả với con chó của mình. Tội nghiệp cho số phận ông lão.
Cuộc đời túng quẫn, nghèo khó cứ đeo đẳng bên lão. Vợ chết để lại mảnh vườn ba sào, nhưng lão nhất quyết không bán dù cho nghèo khó. Lão tự bảo: Cái vườn là của con ta … của mẹ nó tậu thì nó được hưởng. Lão nghĩ vậy và làm đúng như vậy. Tất cả hoa lợi thu được lão bán để dành dụm riêng chờ ngày con về cưới vợ. Cảm thương cho ông lão đã vò võ trông con về làng, lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về cũng có được trăm đồng bạc.
Nhưng hy vọng chẳng có, thất vọng lại về, lão bị một trận ốm đúng hai tháng mười tám ngày, bao nhiêu vốn liếng dành dụm được đều sạch nhẵn. Sau trận ốm, người lão yếu quá, không làm được việc nặng, việc nhẹ thì người ta tranh hết, lão phải cầm hơi qua ngày bằng củ chuối, củ ráy, con ốc, con trai…
Vì không kiếm được tiền để sống, lại sợ tiêu lạm vào tiền của con nên lão quyết định tìm đến cái chết. Lão chết để con lão khỏi trắng tay. Thật cảm động biết bao về tấm lòng yêu thương bao la và đức hi sinh cao cả của một người cha khốn khổ! Số phận của lão thật bi thương.
Nghèo đến nỗi phải bán đi con Vàng mà lão yêu thương, gắn bó. Kể lại việc bán chó với ông giáo, lão đau đớn xót xa: mặt lão đột nhiên rúm lại, những nép nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc… lão khóc vì thương chó, và cảm thấy mình là kẻ lừa dối khi bán cậu Vàng. Số phận của lão thật bi thương nhưng lão không đánh mất phẩm giá của mình. Đến bước đường cùng lão luôn nghĩ đến con mà chẳng nghĩ đến mình.
Lão đủ can đảm để nghĩ đến chuyện kết thúc cuộc đời để không làm phiền đến ai. Lão từ chối mọi sự thương hại của người khác, cho dù đó là sự cưu mang chân tình. Ngay cả ông giáo, người hàng xóm gần gũi nhất và tin tưởng nhất, ông cũng từ chối sự giúp đỡ. Lão Hạc còn nghĩ đến cái chết không làm phiền lòng người khác. Lão nhịn ăn, tích góp được hai lăm đồng cộng với năm đồng bán chó, lão gửi ông giáo nhờ làm đám ma cho lão.
Trước khi chết, lão còn nghĩ đến hạnh phúc của con. Lão viết văn tự nhượng mảnh vườn cho ông giáo để không ai còn mơ tưởng, dòm ngó đến, khi nào con lão về thì sẽ nhận vườn làm. Tuy lão nghèo khó, lại bị xã hội bỏ rơi nhưng lão vẫn giàu đức hi sinh, giàu tình thương và giữ vững phẩm chất cao đẹp của mình.
Hình ảnh Lão Hạc chết thật thê thảm. Lão mượn miếng bả chó để tự kết liễu đời mình. Tội nghiệp cho lão quá! Lão vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra… Cái chết đau đớn của lão đã làm sáng tỏ thêm phẩm chất cao đẹp của người nông dân hướng thiện. Tuy sống trong cái xã hội đầy bóng tối, nhưng tâm trí lão vẫn sáng ngời, tính cách của lão thật cao quí. Cả đời lão nghèo đói nhưng không làm mất đi tấm lòng đôn hậu, trong sáng của mình.
Với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, xen kẽ tự sự, Nam Cao đã gợi cho ta niềm cảm thương vô hạn đối với những người nông dân nghèo khổ. Ngòi viết của Nam Cao là tiếng nói cảnh tỉnh về một xã hội thiếu công bằng, không quan tâm đến người nghèo, chà đạp lên số phận của con người lương thiện.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Trong đội ngũ nhà văn hiện đại Việt Nam, Nam Cao được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng. Ông hi sinh năm 1951 trong cuộc kháng chiến chống Pháp, lúc đó, ông mới 36 tuổi. Tuy cuộc đời ngắn ngủi nhưng Nam Cao đã để lại cho đời nhiều áng văn có sức sống lâu bền. Tác phẩm của Nam Cao – những truyện ngắn, truyện dài – thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.
Đó là những trang viết chân thực, vô cùng sâu sắc về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức cùng phẫn phải sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Đọc truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, chúng ta bắt gặp cả hai kiểu nhân vật đó: lão Hạc và ông giáo.
Ông giáo là người kể chuyện, lão Hạc là nhân vật chính của câu chuyện. Cả hai người đó đều đáng cảm thông và đáng trân trọng, nhất là lão Hạc. Lão Hạc – ông cụ lão nông ấy – đã phải trải qua hai cái chết trong cuộc đời mòn mỏi bế tắc, nhưng có một tấm lòng thương con vô cùng sâu nặng.
Cảnh ngộ của lão Hạc thật bi thảm. Nhà nghèo, vợ chết, hai cha con lão Hạc sống lay lắt, rau cháo qua ngày. Một ngày nọ, người con trai của lão phẫn chí vì không có tiền cưới vợ, bỏ đi làm phu đồn điền cao su biền biệt, một năm nay chẳng có tin tức gì. Lão Hạc thui thủi sống cô quạnh một mình với con chó Vàng, kỉ vật người con trai để lại. Lão gọi con chó là “cậu Vàng”, coi con vật như người thân trong nhà. Vắng nhà đi kiếm ăn thì thôi, hễ về tới nhà là ông lão lại trò chuyện tâm tình, chia sẻ mọi nỗi vui buồn với “cậu Vàng”.
Nhiều khi lão gọi Vàng là con, là… cháu, xưng ông cứ y như là hai ông cháu vậy. Đối với lão Hạc, con chó là niềm vui, là nguồn hạnh phúc đơn sơ mà thiết thực giúp lão sống trong đói nghèo để đợi người con trai trở về xây dựng hạnh phúc lứa đôi và hạnh phúc gia đình cho lão được sống bên con, bên cháu, vui vầy như bao người bình thường khác. Nhưng sự túng quẫn ngày càng đe dọạ lão.
Sau trận ốm nặng kéo dài, lão yếu người đi ghê lắm. Đồng tiền bấy lâu nay dành dụm cạn dần. Lão không có việc làm. Rồi một cơn bão ập đến, phá sạch sành sanh hoa màu trong vườn. Giá gạo thì cứ cao mãi lên. Vì thế, lão Hạc lấy tiền đâu để nuôi “cậu Vàng”?
Kể ra trong nhà cũng còn ít tiền để dành cho đứa con trai, nhưng lão không muốn tiêu lẹm vào đấy. Mà cho “cậu Vàng” ăn ít, thì “cậu” gầy đi, tội nghiệp. Ông lão nông nghèo khổ ấy cứ băn khoăn day dứt mãi, cuối cùng dằn lòng quyết định bán “cậu Vàng”, rồi đến nhà ông giáo cậy nhờ một việc quan trọng.
Đọc phần trích, cũng là phần đặc sắc nhất của thiên truyện, chúng ta cảm nhận rõ hai sự việc lớn của cuộc đời lão Hạc : việc bán “cậu Vàng” và việc tìm đến cái chết. Hai sự việc ấy tuy khác nhau nhưng đều toát lên một ý nghĩa chung vé tấm lòng người cha thương con mênh mông, sâu nặng. Bán con chó Vàng, lão Hạc đối mặt với cái chết thứ nhất. Vì sao lão Hạc phải bán “cậu Vàng”?
Nếu để con chó lại nuôi thì lão Hạc phải tiêu lẹm vào số tiền dành dụm cho người con đang xa nhà. Điều đó lão không muốn, tuyệt đối không muốn. Đối với lão Hạc, số tiền và mảnh vườn dành cho con thiêng liêng như một báu vật mà hằng ngày lão chỉ biết hết lòng bảo vệ chứ không bao giờ dám xâm phạm. Việc quyết định bán con chó Vàng bắt nguồn từ tấm lòng thương con sâu sắc của một người cha nhân hậu và giàu lòng tự trọng.
Bán con chó Vàng vì thương con, nhưng rồi lão Hạc lại vô cùng ăn năn, day dứt. Lão sang nhà ông giáo giãi bày những nỗi đau thống thiết của mình. “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Mấy câu văn ngắn ngủi đặc tả ngoại hình nhân vật thật ấn tượng.
Tác giả đã sử dụng các từ tượng hình: “co rúm lại”, “xô lại”, “ngoẹo về một bên”… và một từ tượng thanh “hu hu” khiến cho nét mặt, thân hình và tâm trạng của lão Hạc hiện lên thật thê thảm. Làm một việc vì tình thương con, nhưng người cha ấy vẫn tự dằn vặt, đau khổ như vừa phạm lỗi lớn. Phải chăng lão Hạc cảm thấy mình có lỗi với “cậu Vàng”, con vật rất đỗi thân thương của lão?
Ta nghe lời lão kể với ông giáo trong truyện mà như nghe chính lão Hạc kể với ta: “Này… cái giống nó cũng khôn! Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi, như muốn bảo,.tôi rằng: A! Lão già tệ lắm! Tôi ân ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!…”.
Đây là lời nói, hay chính là lời sám hối, lời tự than, tự trách mình quá phũ phàng, nhẫn tâm của một tấm lòng nhân hậu! Từ những nét ngoại hình quằn quại đến những lời ăn năn, sám hối này, lão Hạc quả là một con người nặng tình nặng nghĩa, thuỷ chung, vô cùng trung thực.
Từ ngày người con phẫn chí ra đi vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc luôn mang tâm trạng “mắc tội” bởi không lo liệu nổi hạnh phúc cho con. Lão cố dành tiền cho con, cố chăm sóc “cậu Vàng” như chăm sóc kỉ vật của con. Vậy mà giờ đây lão phải bán “cậu Vàng” cho người ta giết thịt, lão cảm thấy mình “mắc tội” nặng hơn, tội với con người, tội với cả con vật.
Tấm lòng người lão nông ấy bao la, sâu nặng biết nhường nào. Con chó Vàng sẽ bị người ta giết thịt. Lão Hạc dự cảm rõ điều đó. Đối với lão, dó là cái chết thứ nhất, một cái chết do chính lão gây ra. Nhưng, người đọc chúng ta ngày nay, suy ngẫm sâu xa một chút, sẽ thấu hiểu và xiết bao xót thương ông lão nông khốn khổ và nhân hậu ấy. Và chúng ta cũng hiểu rằng chính cái xã hội thực dân phong kiến bấy giờ đã đẩy lão Hạc và biết bao người nông dân khác vào bi kịch như lão Hạc.
Vì hạnh phúc của một người con này, lão Hạc phải chứng kiến cái chết của một “người… con” khác, phải tự huỷ diệt một niềm vui, một kỉ vật thân thương của đời mình. Nêu sự việc lão Hạc bán chó, rồi đau khổ vật vã tự trách mình, ngòi bút Nam Cao đã lay động tận nơi sâu thẳm tình cảm bạn đọc chúng ta.
Nhưng Nam Cao không dừng lại ở đó. Nhà văn tiếp tục lay động chúng ta bằng một sự việc tiếp sau dữ dội hơn, thống thiết hơn. Đó là việc lão Hạc tìm đến cái chết. Với cái chết lần thứ hai này, tấm lòng người lão nông thương con mênh mông, sâu nặng ấy mãi mãi toả sáng. Tìm hiểu về sự việc này, chúng ta thử hoá thân vào nhân vật ông giáo để lắng nghe lời lão Hạc nói và chứng kiến công việc ông lão làm.
Sau những lời đắng cay về việc bán chó, lão Hạc rề rà, nhỏ nhẹ mà tha thiết, chân thành giãi bày hoàn cảnh của mình để nhờ ông giáo giúp cho hai việc. Việc thứ nhất: gửi ba sào vườn, khi anh con trai lão trở về thì ông giáo giao lại để anh có đất ở, có vốn mà sinh nhai. Việc thứ hai : gửi ba mươi đồng bạc (hai mươi nhăm đồng tích cóp tằn tiện hơn một năm trời và năm đồng vừa bán chó) để khi ông lão chết, nhờ hàng xóm chi tiêu cho việc ma chay…
Những điều lão Hạc thu xếp, nhờ cậy ông giáo thật là chu đáo. Nghĩ đến con, ông cụ luôn mong ước con được sống yên ổn„ hạnh phúc. Nghĩ về mình cụ luôn luôn tự trọng, không muốn phiền luỵ ai. Khi nghe lão Hạc trình bày, ông giáo bật cười bảo : “Sao cụ lo xa quá thế? Cụ còn khoẻ lắm, chưa chết đâu mà sợ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn..”.
Ông giáo không thể biết được rõ ý nghĩa việc lão Hạc nhờ cậy. Còn chúng ta, đọc truyện, nhận rõ ổng cụ lão nông đó đã chuẩn bị cho cái chết của mình thật là bình tĩnh, chủ động, tự nguyện, tự giác. Thực ra lão đã âm thầm chuẩn bị cho cái chết của mình từ khi bán “cậu Vàng”, đúng như lời lão nói với ông giáo: “Tôi đã liệu đâu vào đấy… Thế nào rồi cũng xong”.
Như vậy, trong tình cảnh đói khổ, túng quẫn, lão Hạc đã định liệu cho “cậu Vàng” – con vật thân thương nhất – và bản thân mình một sự giải thoát. Với con chó thì hoá kiếp cho “để thành kiếp người”. Còn với mình, lão chết để thành kiếp gì? Thật mịt mờ, bế tắc. Nhà văn Nam Cao cứ nhẹ nhàng dẫn dắt câu chuyện theo lời kể của ông giáo, đưa người đọc chúng ta từ sự việc này sang sự việc khác đầy hấp dẫn, bất ngờ.
Sau khi nghe lời lão Hạc nói rằng: “Tôi đã liệu đâu vào đấy”, ông giáo đã cảm động bởi cách lo toan chu đáo, tấm lòng thành thực, vừa thương con, vừa tự trọng của lão Hạc thì được nghe Binh Tư kể việc lão Hạc xin bả chó… Ông giáo đã thốt lên: “Hỡi ôi! Lão Hạc”.
Người đọc cũng ngỡ ngàng, sửng sốt, tưởng rằng lão Hạc sẽ làm một việc xấu xa, đáng buồn như việc Binh Tư thường làm: đánh bả chó, rồi thịt chó uống rượu. Vẻ đẹp của hình tượng lão Hạc bỗng mờ đi, như cuộc sống lúc bấy giờ “cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Câu chuyện tưởng chừng ngoặt sang hướng khác. Những dòng chữ lời văn như ngưng đọng lại, căng thẳng, hồi hộp!
Nhưng rồi, đến phần cuối của câu chuyện, tất cả đã ùa ra. Lão Hạc đã chọn một cái chết dữ dội, bất ngờ. Chúng ta hãy vào nhà lão Hạc. Một cảnh tượng rùng rợn thảm thương bày rạ trước mắt ta: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết…”.
Dồn dập trong mấy câu miêu tả là các từ tượng hình “vật vã”, “rũ rượi”, “xộc xệch”, “long sòng sọc”, và các cụm động từ mạnh như “sùi ra”, “giật mạnh”, “nảy lên”, “đè lên”,… đã cực tả một cái chết thật dữ dội, đau đớn. Tại sao lão Hạc không chọn một cái chết khác êm dịu, lặng lẽ, âm thầm?
Đối chiếu với cái chết thứ nhất của “cậu Vàng”, nhìn thoáng bên ngoài, ta cảm thấy cái chết của. lão Hạc như có những nét tương tự. “Cậu Vàng” bị lão Hạc đánh lừa, cho ăn cơm, rồi bị hai người (“thằng Mục” và “thằng Xiên”) đè xuống, trói lại. Lão Hạc cũng bị hai người đàn ông lực lưỡng “đè lên người”. Biết là mình sẽ chết, “cậu Vàng” kêu “ư ử”, lão Hạc thì “tru tréo”, “vật vã”,…
Phải chăng khi chọn cho mình cái chết dữ dội thảm thương này, người lão nông ấy như có ý tự trừng phạt mình, chia sẻ nỗi đau với con vật thân yêu như ruột thịt. Bởi vì, cả đời ông lão sống trung thực, chưa đánh lừa ai. Lần đầu tiên lão làm một việc xấu xa là đánh lừa “cậu Vàng”, người bạn thân thiết, niềm hạnh phúc, niềm vui của chính mình. Lão đã lừa để con chó bị chết thì giờ đây lão cũng phải chết theo kiểu con chó bị lừa. Điều này càng chứng tỏ lão Hạc có lòng tự trọng rất cao, ứng xử trung thực vô ngần.
Và cũng chứng tỏ ngòi bút nhà văn Nam Cao sắc lạnh, tỉnh táo vô cùng. Nam Cao rất thương con người, tôn trọng con người, đồng thời luôn đòi hỏi cao ở con người. Ông đã đặt nhân vật lão Hạc vào những cuộc lựa chọn khắc nghiệt : chọn hai cái chết. Cái chết thứ nhất tuy không đau đớn về thể xác nhưng lại đau đớn, day dứt về tinh thần. Còn cái chết thứ hai, tuy đau đớn thể xác nhưng dường như ông lão đã được giải thoát và… thanh thản về tinh thần vì lão đã trả hết nợ đời, nợ với con chó Vàng, nợ với đứa con trai tội nghiệp phải bỏ nhà ra đi.
Có thể nói, đọc truyện Lão Hạc, chúng ta thấy nổi bật lên, ấn tượng mạnh mẽ nhất là câu chuyện về hai cái chết: cái chết của con chó Vàng do lão Hạc gây nên và cái chết của lão Hạc do tự lão lựa chọn. Cả hai cái chết này đều bắt nguồn từ tình cảm người cha thương con mênh mông, sâu nặng. Lão Hạc phải bán “cậu Vàng” – cũng là cách tự huỷ một niềm vui, một khát vọng để không phải tiêu lẹm vào số tiền dành cho con.
Lão Hạc tự tử cũng nhằm không muốn sống thừa, sống lay lắt, vô vị mà ăn lẹm vào số vốn liếng, mảnh đất đợi con về… Người cha ấy đã hi sinh cả cuộc đời mình cho hạnh phúc của con. Người lão nông ấy đã sống một cuộc đời đau khổ nhưng thật trong sáng, đáng cảm thương và trân trọng.
Cùng với nhân vật lão Hạc, chúng ta bắt gặp nhân vật ông giáo (có thể coi là tác giả). Nhờ ông giáo, nhờ nhà văn kể chuyện, chúng ta càng thấm thía hơn cuộc đời đau khổ của lão Hạc. Khi ông giáo nghĩ “Cuộc đời đáng buồn, nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”, chúng la hiểu rằng Nam Cao rất xót xa, căm giận cái xã hội tối tăm ngột ngạt bấy giờ. Xã hội ấy đã đẩy những người có nhân cách cao đẹp như lão Hạc vào tình cảnh đói nghèo, bế tắc, phải chết thảm thương.
Khi ông giáo than thở : “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn ;… không bao giờ ta thương…”, chúng ta càng thấu hiểu suy nghĩ sâu sắc, mang tính triết lí và tình thương bao la đậm chất nhân văn của Nam Cao. Và chúng ta cũng rút ra được bài học thiết thực về cách nhìn, cách ứng xử mà các nhà nghiên cứu gọi là “vấn đề đôi mắt”…
Tóm lại, truyện ngắn Lão Hạc đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương và phẩm chất cao quý của người nông dân cùng khổ trong cuộc đời cũ. Cuộc đời ấy là xã hội thực dân nửa phong kiến ở nước ta, giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 mà “hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở”. Lão Hạc, vì tình thương con sâu nặng đã chấp nhận những giá lạnh cuộc đời để nhường chút hơi ấm của tấm chăn hạnh phúc cho người con xa nhà.
Cũng qua câu chuyện về lão Hạc, nhà văn Nam Cao thể hiện lòng thương yêu, thái độ trân trọng đối với những con người bất hạnh mà biết sống cao thượng. Tác phẩm này cho thấy tài năng của nhà văn qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện; kể các sự việc, khắc hoạ nhân vật sinh động, có chiều sâu tâm lí, cách kể linh hoạt, hấp dẫn, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà trĩu nặng những cảm xúc và suy nghĩ lắng sâu.
Ngoài ra, tại chúng tôi còn có 🌺 Thuyết Minh Về Truyện Ngắn Lão Hạc 🌺 15 Bài Văn Hay
Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một trong những nhân vật “để đời” của Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng.
Lão sống một thân một mình trong cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất để nương tựa tuổi già thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su- “cao su đi dễ khó về”. Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, làm mướn kiếm ăn lân hồi, đồng thời cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.
Nhưng một trận ốm đã làm lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần “những công việc nặng không làm được nữa”, việc nhẹ thì “đàn bà tranh hết”. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa màu trên mảnh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém dần. “Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo mà gia sự còn đói gieo đói dắt. Cuối cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.
Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm gì bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con chó vàng đó, có thể bán đi mà tiêu. Nhưng lão sống vì con chứ đâu vì mình. Điều này mấy ai hiểu cho lão. Người ta chỉ thấy lão lẩm cẩm. Có ông giáo hàng xóm là người có lòng ái ngại, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị thị gạt phắt ngay: “Cho lão chết! Ai bão lão có tiền mà chịu khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Con mình cũng đói”.
Còn Binh Tư, một gã lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại lấy làm khoái chí khi thấy lão đến xin mình một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc “đói quá hóa liều” cũng quay sang trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu”. Ngay đến ông giáo tuy hiểu lão Hạc hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ. Người ta chỉ hiểu lão khi lão đã chết rồi. Lão tự tử bằng nắm bả chó của Binh Tư. Lão chết đi nhưng sẽ còn sống mãi trong lòng người như một tấm gương đạo đức hiếm có.
Hiếm có người cha nào thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc nào cũng nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu khổ, chịu đói và chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trái, nỗi lo chu tất cho con luôn ám ảnh, dằn vặt tâm trí lão. Hồi anh ta còn ở nhà, lão không cho anh ta bán vườn để cưới vợ cũng là xuất phát từ sự tính toán điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha.
Thực ra lão dằn lòng lắm. Bởi đạo làm cha phải lo cho con một người vợ, một căn nhà – một tổ ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con trai phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già. Đã bao lần, lão ngỏ tâm sự này với ông giáo: tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con chó vàng, mảnh vườn, lão không dám đụng đến, vì đây là tiền của con, là tiền mà người làm cha phải để lại cho con. Nếu không, không phải “đạo”.
Đã bao lần lão tính tiền bòn vườn sủa con, “không cho bán là ta chỉ có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu!… Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn”. Lão đã làm y như thế. Thà ăn khoai, ăn củ chuối, củ ráy… chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu bán mảnh vườn của con.
Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnh vườn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ. Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến. Ôi, lão Hạc, con người bề ngoài thì có vẻ tiều tụy và gàn dở như vậy mà thật giàu tình nặng nghĩa. Mà đâu chỉ đối với đứa con. Tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện ở cái tình rất nặng với con chó vàng mà lão gọi là “cậu vàng” như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự.
Cứ xem cái cách lão nựng con chó: “À không! À không! Cậu vàng của ông ngoan lắm! ông không cho giết… ông để cậu vàng ông nuôi”…, hay cái vẻ mặt vô cùng đau khổ của lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. “Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít”, đủ thấy lão thương xót con chó và cảm thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.
Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc cũng thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trọng đến thế, lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão đói đấy, lão phàn nàn “kiếp người như lão cũng khổ như kiếp chó” đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè tươi, lão đã từ chối.
Lão dứt khoát “từ chối tất cả”. Khi ông giáo giấu vợ, thỉnh thoảng muốn ngấm ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối “một cách gần như hách dịch”. Rồi lão cứ cố ý xa ông giáo dần dần. Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái chết, một cái chết bi thảm, khốc liệt như là cái chết của một con người cao quý. Bởi qua cái chết này, tất cả những phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng thăm thẳm vào lòng người.
Gần đây người ta đã dựng phim về các nhân vật của Nam Cao – phim Làng Vũ Đại ngày ấy. Nhà văn Kim Lân được mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm kĩ về nhân vật của mình, ông nói: “Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó là một con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất”. Chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý với Kim Lân.
Ta còn thấy rằng những phẩm chất ấy của lão Hạc đã cho ta những suy nghĩ sâu sắc. Cái chết của lão Hạc đã để lại cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn là nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc nhất là trong bất kì thân phận nào, hoàn cảnh nào cũng phải giữ danh hiệu con người cao quý.
Giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu biết để đánh giá đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng hơn ở con người và cuộc đời. Và phải biết căm ghét xã hội bất công, những thế lực độc ác vùi dập, đày đọa những con người như lão Hạc.
Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: “Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!”. Nhưng thực ra sống làm người, có những điều dù khổ, dù phải tự làm khổ mình cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những điều thuộc về đạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ.
Vì thế, đã hơn 60 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống cùng chúng ta,sẽ còn sống cùng chúng ta. Và dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng buồn nhưng có những con người như lão Hạc thì cuộc đời “chưa hẳn đã đáng buồn”.
Gợi ý cho bạn 🍃 Phân Tích Nhân Vật Ông Giáo 🍃 10 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn là một tác phẩm như thế.
Nhân vật chính của tác phẩm – nhân vật lão Hạc – dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.
Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn.
Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,…
Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử…!
Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên… Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.
Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,… ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng.
Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,… là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.
Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!
Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Cao..) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần như hách dịch” khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng.
Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: “con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người – kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!
Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.
Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc. Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.
Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiêm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!
Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.
Tham khảo trọn bộ 🍀 Phân Tích Tức Nước Vỡ Bờ 🍀 13 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Viết về đề tài nông dân trước cách mạng, “‘Lão Hạc” là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.
Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con chó vàng… đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con, lão lần hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới vợ, cảm thấy “nhục lắm” đã “phẫn chí” đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt năm, sáu năm chưa về.
Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày. Không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tình cảnh ấy thật đáng thương!
Tiếp theo một trận bão to, cây trái hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà con gái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá gạo mỗi ngày một cao. Lão và cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà vẫn “đói gieo đói dắt”. Bao nhiêu tiền bán hoa lợi trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!
”Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (…). Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?”. Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế khi nghe lão Hạc nói về ý định phải bán con chó. Cậu Vàng “ăn khỏe”, mỗi ngày cậu ấy ăn “bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào”. Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng “lấy tiền đâu mà nuôi được?” Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục…
Bán cậu Vàng xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ “tệ lắm”, đã già mà còn “đánh lừa một con chó”. Đói khổ, túng bấn, cô đơn… ngày một thêm nặng nề… lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc, ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai bữa ốc.
Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo một cách “gần như là hách dịch”. Lão xa ông giáo dần, chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép sùi ra… vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!
Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang Rận thắt cổ chết… Và lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc đã từng hỏi ông giáo: ”… nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?”. Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người.
Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con buồn vì không có tiền để cưới vợ lão thương con lắm…. Lão đau đớn khi con sắp đi làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: “Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi (…). Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ?”. “Cao su đi dễ khó về” (Ca dao).
Con trai lão Hạc đã đi “bằn bặt” năm, sáu năm chưa về. Hoa lợi trong vườn, bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về “có chút vốn mà làm ăn”. Lão tự bảo: “Mảnh vườn là của con ta… Của mẹ nó tậu thì nó hưởng…”. Đói khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết, thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn!
Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng, mà người con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là “cận Vàng”. Cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ.
Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: “Cậu Vàng của ông ngoan lắm! Ông không cho giết… Ông để cậu Vàng ông nuôi…”. Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vơi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng.
Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.
Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy… ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè, lão cười hồn hậu và khất “ông giáo cho để khi khác”. Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ, lão từ chối “một cách gần như hách dịch”. Bất đắc dĩ phải bán con chó; bán xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: “thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”.
Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền đinh ninh: “Cái vườn là của con ta (…). của mẹ nó tậu thì nó hưởng”. Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng bạc để “lỡ có chết… gọi là của lão có tí chút…”, vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ “làm nghề ăn trộm” ở phần cuối truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng.
Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng… Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.
SCR.VN chia sẻ 🌟 Phân Tích Nhân Vật Chị Dậu 🌟 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng. Tác phẩm của ông thường gắn liền với hình ảnh nông thôn đói khổ. Trong hoàn cảnh đó, ông vẫn nhìn thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo đang âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy. Nhân vật chính là một lão nông nghèo khổ, bất hạnh nhưng vẫn mang những phẩm chất cao quý đáng trân trọng.
Truyện được kể qua lời ông giáo – người hàng xóm thân thiết của lão Hạc – đã tạo cho câu chuyện thêm phần chân thực, sinh động. Qua ông giáo, ta được biết gia cảnh buồn của lão Hạc: vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phẫn chí do bị phụ tình vì quá nghèo nên bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay chẳng tin tức gì. Kỷ vật duy nhất con trai lão để lại là con chó mà lão vẫn hay trìu mến gọi là cậu Vàng.
Mỗi lần nhớ con, lão lại ngồi nói chuyện với nó cho khuây khỏa. Vì thế, có thể nói nó là một người bạn tri kỉ của lão. Nhưng rồi, cảnh đói kém bủa vây. Một trận ốm đã làm cho số tiền tích cóp của lão cạn dần. Còn mảnh vườn nhưng lão không thể bán được vì lão muốn để dành nó cho con trai. Vì vậy, sau nhiều lần định bán con Vàng, lần này lão dứt khoát chia tay nó. Lão không muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai.
Cảnh lão bán cậu Vàng thật xót xa. Cả đời lão chưa dám lừa một ai. Vậy mà lần này lão lại đi lừa một con chó – điều này làm lão đau lòng và tội lỗi: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”
Lão tìm đến ông giáo để giãi bày lòng mình. Lão muốn nhờ ông giáo trông coi hộ lão cái vườn đến khi con trai lão trở về. Rồi lão cũng nhờ ông giáo lo liệu ma chay cho mình nếu sau này già yếu. Những suy nghĩ, tính toán của lão thật đơn giản, thật thà. Nhưng mọi thứ đều được lão sắp xếp một cách cẩn thận, chi tiết. Lão vừa lo cho con trai mình, rồi lại lo đến cái chết của mình làm ảnh hưởng tới làng xóm. Điều này như một dự báo sẽ có một biến cố lớn xảy đến với lão.
Từ ngày bán cậu Vàng, và cũng từ khi nói chuyện, nhờ cậy ông giáo xong, nếp sống sinh hoạt của lão cũng có sự thay đổi: “Lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc.”
Mặc dù vẫn còn ba mươi đồng bạc đó, nhưng lão không muốn là ảnh hưởng tới cái “gia tài” của con. Xuất phát từ tình thương của một người cha đã khiến cho lão phải chịu cảnh sống đói khổ. Nhưng không phải vì thế mà lão nảy sinh thói hư tật xấu. Lão vẫn giữ cho mình nếp sống “đói cho sạch, rách cho thơm”.
Cuộc sống bế tắc đã đẩy lão Hạc tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Trước hết, lão sang nhà Binh Tư xin ít bả chó. Biết tin, ông giáo thấy vô cùng đau lòng: “Hỡi ơi lão Hạc! Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư?”
Ai cũng cứ ngỡ rằng rồi đây, lão sẽ sa chân vào con đường tội lỗi khi nghe những lời Binh Tư kể lại: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó. Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão…Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.”
Nhưng rồi cái chết của lão đã làm đảo lộn suy nghĩ của tất cả mọi người: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu.” Lão vẫn giữ cho bản thân mình trong sạch, nhưng cái chết của lão thật đau đớn, bi thảm.
“Lão Hạc” đã cho chúng ta thấu hiểu được hoàn cảnh khổ đau, khốn cùng, bế tắc của người nông dân nghèo có tâm hồn cao đẹp trong chế độ thực dân phong kiến tàn ác đương thời. Đồng thời, truyện cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta phải biết quan tâm, giúp đỡ những con người có số phận éo le hơn mình.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Trong Lòng Mẹ 🔥 16 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Nam Cao là nhà văn với những sáng tác để lại trong lòng người đọc nhiều day dứt và ám ảnh. Mỗi câu chuyện của ông đều mang dáng dấp của một đời người, một kiếp người lầm than trong xã hội. Nam Cao tập trung khai thác số phận người nông dân trước cách mạng tháng Tám, bế tắc, cùng cực đã khiến cho cuộc đời họ chìm vào nước mắt.
Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những câu chuyện cảm động về hình ảnh nghèo khó của người nông dân, đồng thời toát lên được vẻ đẹp tinh thần đáng quý của họ. Đây mới chính là giá trị nhân văn của tác phẩm này.
Nam Cao lấy bối cảnh lịch sử là thời kỳ đất nước đang chìm trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, đói khổ, xơ xác. Ông đã xây dựng nên nhân vật nông dân điển hình trong một xã hội điển hình. Qua nhân vật này tác giả muốn lột tả chế độ thực dân phong kiến và cuộc sống bần hàn của người nông dân.
Tác giả lựa chọn ngôi kể độc đáo, theo ngôi thứ ba, theo lời của ông Giáo, hàng xóm của lão Hạc. Bơi vậy câu chuyện thêm sinh động, chân thực và mang tính khách quan hơn. Người đọc có thể quan sát, theo dõi cuộc đời của một con người phải trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến cố.
Những câu văn giản dị cứ thế đi vào long người đọc một cách chân thật và hiền hòa nhất. Từng mảnh đời cứ chấp chới hiện lên dật dờ, nghèo đói nhưng trong họ ánh lên sự nhân hậu, vị tha và lòng yêu thương tha thiết. Cuộc đời của lão Hạc thật là buồn, buồn đến thê thảm. Vợ lão mất sớm, lão ở với đứa con trai. Nhưng từ khi đứa con trai đi làm điền cao su thì lão không còn biết tin tức gì về con nữa.
Lão thương con, rồi lão thương cho chính cuộc đời của mình chẳng làm được gì cho con. Lão Hạc là hiện thân của người nông dân hiền lành, lương thiện, chất phác, chăm chỉ làm ăn. Ai thuê lão làm gì, lão đều làm. Nhưng cuộc đời khắc nghiệt, cuộc sống khắc nghiệt, sức khỏe của lão yếu đi, lão không muốn cậy nhờ con và hàng xóm.
Túng quẫn, bế tắc, lão đã nghĩ đến việc bán cậu Vàng. Nhưng tình cảm của lão dành cho cậu Vàng quá thân thiết, nên lão không nở, bao nhiêu lần mà lão không bán nổi. Sự giằng xé trong tâm hồn đã khiến cho lão ngày càng bệnh tật, ốm đau. Nhưng rồi vì cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì nuôi cậu Vàng. Lão không muốn tiêu vào những đồng tiết tiết kiệm lão dành dụm cho đứa con trai từ việc bán hoa lợi và thu được từ mảnh vườn ba sào bé tý. Vậy là lão đứt ruột bán cậu vàng, nói đúng hơn là lão phải lừa để mới có thể bán cậu Vàng.
Cảnh bán chó thực sự là một cảnh tượng xúc động, đầy dằn vặt và đau đớn của lão Hạc. Lão đã tự thú nhận “già bằng này tuổi đầu còn đi lừa một con chó”. Ông giáo đã kể lại cảnh tượng đó “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra ngoài. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc”. Một đoạn văn tràn đầy tình cảm, một đoạn văn khiến người đọc không cầm nổi nước mắt.
Một người nông dân chất phác, ngay cả trong việc bán chó cũng vậy. Lão không muốn cậu Vàng đau lòng, muốn nó ra đi thanh thản nhất, nhưng thực ra lòng lão đang quá rối bời. Những tâm sự của lão Hạc khiến người đọc xúc động, cảm thông và rất đỗi khâm phục. Ông dù nghèo nhưng vẫn quyết dành tình cảm cho đứa con trai duy nhất.
Lão Hạc yêu thương con hết mực, quyết định hi sinh vì con. Bởi vậy lão mới quyết định kết liễu cuộc đời mình để không liên lụy đến con mình. Một người cha yêu thương con hết mực và là một người suy nghĩ quá thấu đáo, chu toàn. Lão đã định sẵn cho mình một cái chết thanh thản, nhẹ nhàng nhất. Lão đã cậy nhờ chuyện ông giáo sau khi chết giao lại mảnh vườn cho con trai và để lại 30 đồng bạc lẻ.
Chi tiết ông Giáo kể với vợ về chuyện lão Hạc thì vợ ông đã nói “Cho lão chết! Ai bảo có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ. Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão. Chính con mình cũng đói”. Bất lực ông giáo chỉ biết ngậm ngùi than thở: “Chao ôi, đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn những cớ để ta tàn nhẫn, không bao giờ thương”.
Thực sự đây là một đoạn hội thoại có giá trị nhân văn sâu sắc, khẳng định một thái độ sống về những con người ở xung quanh mình. Có lẽ Nam Cao ngầm thương xót cho những mảnh đời bất hạnh, sống hiền lương nhưng lại bị ruồng bỏ.
Cái chết của lão Hạc là một cái chết đầy bi kịch, thức tỉnh biết bao nhiêu con người. Cái chết đó đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến nhiều bất công, đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Sự bế tắc, túng quẫn đã dẫn đến cái chết bi thảm đó. Ông giáo đã có suy nghĩ sai lầm thì nghe bảo lão Hạc sang xin bả chó. Nhưng thực sự là ông đang muốn kết liễu đời mình, không muốn làm gánh nặng cho con trai.
Tại sao lão lại chọn cái chết đau đớn, đầy thương tâm đó. Có lẽ đây là điều mà rất nhiều người hỏi, nhưng có lẽ có nguyên nhân của nó. Phản ánh sự bế tắc đến cùng cực xã hội phong kiến, đẩy con người vào chỗ chết. Có lẽ lão Hạc muốn trừng phạt chính bản thân mình vì đã đi “lừa một con chó”, đồng thời lão muốn yêu thương đứa con trai đến giây phút cuối cùng. Cái chết đó chỉ ông Giáo và Binh Tư mới hiểu.
Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao thực sự ám ảnh đến người đọc vì hình ảnh người nông dân cùng cực trong xã hội phong kiến. Đồng thời khẳng định vẻ đẹp tinh thần lấp lánh trong con người họ.
Tiếp tục tham khảo ☀️ Phân Tích Tôi Đi Học ☀️ 15 Bài Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất
Trong số các tác phẩm viết về đề tài người nông dân, “Lão Hạc” của Nam Cao là một trong những truyện ngắn tiêu biểu và đạt được sự thành công ở giá trị nội dung cũng như nghệ thuật. Bằng tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu, xây dựng tình huống truyện và hình tượng nhân vật, tác giả Nam Cao đã lưu lại trong trang văn những ý niệm vô cùng sâu sắc, độc đáo của quan niệm nghệ thuật về con người. Đó là quan niệm về “đôi mắt” nhìn đời, nhìn người và đánh giá con người.
Quan niệm nghệ thuật là một trong những khái niệm quen thuộc thể hiện quan niệm về thế giới quan và nhân sinh quan của người nghệ sĩ, hay nói cách khác: “Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình” (Trần Đình Sử, (1993), Dẫn luận Giáo trình Thi pháp học, Nxb ĐH sư phạm thành phố Hồ Chí Minh).
Như vậy, thông qua việc việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, các nhà văn, nhà thơ sẽ thể hiện quan niệm nghệ thuật riêng của bản thân, in đậm dấu ấn nhân sinh quan cá nhân và tạo nên phong cách sáng tác riêng biệt. Đối với nhà văn Nam Cao, quan niệm của ông về con người luôn được thể hiện rõ qua vấn đề “đôi mắt” và vấn đề lập trường, thái độ và trách nhiệm của người trí thức.
Đó là suy ngẫm của nhân vật ông giáo trước thái độ của người vợ khi thị đánh giá về lão Hạc: “- Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!”. Trong tác phẩm, lão Hạc là nhân vật chính với những vẻ đẹp về phẩm chất như yêu thương con cái, giàu đức hi sinh, hiền lành, lương thiện và giàu lòng tự trọng. Tuy nhiên, trong mắt của những người xung quanh, lão chỉ là một kẻ “gàn dở” và “ngu ngốc”, bởi khi “không cố gắng mà hiểu” thì con người không thể phát hiện những vẻ đẹp bị che lấp của người khác.
Khi sống trong sự nghèo khổ đến cùng cực thì “cái bản tính tốt của người ta” – sự quan tâm, thấu hiểu, sẻ chia sẽ bị “những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”. Như vậy, qua dòng suy ngẫm của ông giáo, nhà văn Nam Cao đã khái quát một quan niệm nghệ thuật về con người thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Đó chính là cách đánh giá và ứng xử với những người xung quanh bằng đôi mắt của tình thương, sự quan tâm, thấu cảm và lòng vị tha.
Quan niệm nghệ thuật về con người được bộc lộ qua những suy ngẫm của ông giáo đã thể hiện rõ đôi mắt, trái tim nhân đạo của Nam Cao. Nhà văn nhìn đời, nhìn người bằng đôi mắt cảm thông, thấu hiểu và sẻ chia. Bởi vậy, tác giả luôn có ý thức đi tìm “cái bản tính tốt đẹp của người ta bị những lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”. Đồng thời, quan niệm nghệ thuật về con người được bộc lộ trong lão Hạc còn thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật tiến bộ và mang tính hệ thống trong các sáng tác của nhà văn Nam Cao.
Không ít lần, nhà văn đã thể hiện rõ quan điểm về vấn đề này, đặc biệt là qua tác phẩm “Đôi mắt”. Tác giả đã nhấn mạnh để khẳng định người nghệ sĩ cần thấu hiểu đời, hiểu người, khám phá con người ở phương diện của những điều tốt đẹp và tích cực bằng đôi mắt của tình thương. Như vậy, “đôi mắt” trong sự tương quan và mối quan hệ với vấn đề cách nhìn, cách đánh giá mang tính nhân đạo, nhân văn cao đẹp đã được tác giả Nam Cao thể hiện trực tiếp thông qua các hình tượng nghệ thuật.
Như vậy, thông qua tác phẩm “Lão Hạc”, chúng ta có thể thấy được quan niệm nghệ thuật về cách đánh giá con người của tác giả. Vấn đề “đôi mắt” gắn với tình thương, sự quan tâm, lòng tin đã chi phối đến những tác phẩm của nhà văn Nam Cao và có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc trong mọi thời đại.
Đón đọc tuyển tập 🌠 Phân Tích Chiếc Lá Cuối Cùng 🌠 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
“Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc đời lương thiện.
Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con. Hơn thế, cậu Vàng còn là nguồn an ủi của một ông lão cô đơn. Lão cho cậu ăn trong bát, chia xẻ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện với cậu như với một con người. Bởi thế, cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão bao lần chần chừ không thực hiện được. Nhưng rồi, cuối cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm đồng bạc.
Cậu Vàng bị bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất đời của lão. Năm đồng bạc Đông Dương kể ra là một món tiền to, nhất là giữa buổi đói deo đói dắt. Nhưng lão bán cậu không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi đi” mà một ngày lo “ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi lão lại đau khổ dày vò chính mình trong tâm trạng nặng trĩu.
Khoảnh khắc “lão cố làm ra vui vẻ” cũng không giấu được khuôn mặt “cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Nỗi đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đắc dĩ, khiến ông giáo là người được báo tin cũng không tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão.
Ông giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”.
Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc phải chảy nước mắt theo: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Bản chất của một con người lương thiện, tính cách của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn đầy nước mắt này.
Nhưng không chỉ có vậy, lão Hạc còn trải qua những cảm giác chua chát tủi cực của một kiếp người, ý thức về thân phận của một ông lão nghèo khổ, cô đơn cũng từ liên tưởng giữa kiếp người – kiếp chó: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”.
Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con. Tấm lòng ấy đáng được trân trọng! Hiện thực thật nghiệt ngã đã dứt đứa con ra khỏi vòng tay của lão, cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi của lão người bạn cậu Vàng.
Bản thân lão như bị dứt đi từng mảng sự sống sau những biến cố, dù cho cố “cười gượng” một cách khó khăn nhưng lão dường như đã nhìn thấy trước cái chết của chính mình. Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu cũng là những lời trăng trối.
Kết cục số phận của lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi người bất ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải pháp duy nhất đối với lão Hạc, để lão đứng vững trên bờ lương thiện trước vực sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ.
Xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật tôi là người bạn, là chỗ dựa tinh thần của lão Hạc. Những suy nghĩ của nhân vật này giúp người đọc hiểu rõ hơn về con người lão Hạc. Nhân vật lão Hạc đẹp, cao quý thực sự thông qua nhân vật tôi.
Cái hay của tác phẩm này chính là ở chỗ tác giả cố tình đánh lừa để ngay cả một người thân thiết, gần gũi với lão Hạc như ông giáo vẫn có lúc hiểu lầm về lão. Sự thật nhân vật tôi cố hiểu, cố dõi theo mới hiểu hết con người Lão Hạc. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin bã chó, ông giáo ngỡ ngàng, chột dạ: “Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có cái ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày lại thêm đáng buồn”.
Chi tiết này đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm. Nó đánh lừa chuyển ý nghĩ tốt đẹp của ông giáo và người đọc sang một hướng khác: Một con người giàu lòng tự trọng, nhân hậu như lão Hạc cuối cùng cũng bị cái ăn làm cho tha hoá, biến chất sao? Nếu Lão Hạc như thế thì niềm tin về cuộc đời về ông giáo sẽ sụp đổ, vỡ tan như chồng ly thủy tinh vụn nát.
Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn dữ dội vì ăn bã chó của lão Hạc, ông giáo mới vỡ oà ra: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”.
Đến đây truyện đi đến hồi mở nút, để cho tâm tư chất chứa của ông giáo tuôn trào theo dòng mạch suy nghĩ chân thành, sâu sắc về lão Hạc và người nông dân… “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dỡ, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa bỉ ổi … toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”.
Có lẽ đây là triết lý sống xen lẫn cảm xúc xót xa của Nam Cao. Ở đời cần phải có một trái tim biết rung động, chia xẻ, biết yêu thương, bao bọc người khác, cần phải nhìn những người xung quanh mình một cách đầy đủ, phải biết nhìn bằng đôi mắt của tình thương.
Với Nam Cao con người chỉ xứng đáng với danh hiệu con người khi biết đồng cảm với những người xung quanh, biết phát hiện, trân trọng, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương. Muốn làm được điều này con người cần biết tự đặt mình vào cảnh ngộ cụ thể của người khác để hiểu đúng, thông cảm thực sự cho họ.
Chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật tôi trực tiếp kể lại toàn bộ câu chuyện cho nên ta có cảm giác đây là câu chuyện thật ngoài đời đang ùa vào trang sách. Thông qua nhân vật tôi, Nam Cao đã thể hiện hết Con người bên trong của mình.
Đau đớn, xót xa nhưng không bi lụy mà vẫn tin ở con người. Nam Cao chưa bao giờ khóc vì khốn khó, túng quẫn của bản thân nhưng lại khóc cho tình người, tình đời. Ta khó phân biệt được đâu là giọt nước mắt của lão Hạc, đâu là giọt nước mắt của ông giáo: Khi rân rân, khi ầng ực nước, khi khóc thầm, khi vỡ oà nức nỡ. Thậm chí nước mắt còn ẩn chứa trong cả nụ cười: Cười đưa đà, cười nhạt, cười và ho sòng sọc, cười như mếu …
Việc tác giả hoá thân vào nhân vật tôi làm cho cách kể linh hoạt, lời kể chuyển dịch trong mọi góc không gian, thời gian, kết hợp giữa kể và tả, hồi tưởng với bộc lộ cảm xúc trữ tình và triết lý sâu sắc…
Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm của mọi thời, bi kịch của đời thường đã trở thành bi kịch vĩnh cửa. Con người với những gì cao cả, thấp hèn đều có trong tác phẩm. Thông qua nhân vật tôi tác giả đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy bảo vệ nhân phẩm con người trong con lũ cuộc đời sẵn sàng xoá bỏ mạng sống và đạo đức. Cho nên chúng ta nên đặt nhân vật tôi ở một vị trí tương xứng hơn khi tìm hiểu tác phẩm.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Cô Bé Bán Diêm 🌼 12 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Có nhà văn nào đó từng nói rằng: văn chương chân chính dù nói về cái xấu, cái ác vẫn phải hướng về cái đẹp, cái thiện, đó là thanh nam châm thu hút mọi thế hệ. Vâng, phải chăng cái xấu cái ác hay cũng chính là cái khổ đau, bất hạnh và cái đẹp cái thiện chính là niềm tin tưởng của nhà văn hướng nguời đọc tin vào vẻ đẹp của nhân vật, để giúp người đọc một bải học về nhân cách.
Qua nhân vật chị Dậu ttrong Tức nước vỡ bờ và Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên, ta thấy được rằng mặc dù gặp nhiều đau khổ, bất hạnh, người nông dân trước cách mạng tháng 8 vẫn giữ trọn những phẩm chất tốt đẹp của mình.
Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm chính là con người. bởi vậy nên, vấn đề chung về con người đã là mẫu số chung, là mảnh đất muôn thuở của thi nhân muôn đời. Nhưng, qua mỗi trang văn nhà văn chân chính phải mang đến một phát minh về hình thức, một khám phá mới về nội dung. Đó là đòi hỏi của nghệ thuật, không chấp nhận sự lặp lại người khác và lặp lại chính mình. Đó là cách duy nhất để anh tồn tại trong sân chơi nghệ thuật.
Cũng chính vì hiểu được điều ấy mà đến với đề tài người nông dân, một đề tài quen thuộc mà thi nhân muôn đời đã đi mòn đứt cỏ thì cả Ngô Tất Tố và Nam Cao đều có những khám phá riêng của mình, chính vì vậy số phận người nông dân đã được khắc họa sinh động, đa chiều và sâu sắc.
Nếu như trong trang văn của Ngô Tất Tố, người nông dân phải chịu nỗi khổ về sưu cao, thuế nặng, hà hiếp áp bức, ngay cả người chết rồi mà vẫn phải nộp sưu thuế. Thật là vô lí. Thì trong trang văn của Nam Cao người nông dân được nhìn trong bi kịch bị tha hóa về nhân cách, phải chịu đựng sự giằng xé giữ dội về cái đói và miếng ăn. Hoặc là chấp nhận sống nhưng bị tha hóa vì miếng ăn, hoặc là chết để bảo toàn nhân phẩm, lão Hạc là một ví dụ điển hình.
Song chính việc soi chiếu và nhìn nhận riêng của mỗi nhà văn như thế đã giúp người đọc nhìn nhận được bản chất và vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam.
Nhưng dù là Lão Hạc hay chị Dậu thì ở cả hai nhân vật ấy, nhà văn đều cho chúng ta thấy được rằng dù gặp nhiều đau khổ, bất hạnh nhưng người nông dân trước cách mạng tháng Tám vẫn giữ trọn nhân phẩm của mình. Chị Dậu của Ngô Tất Tố, một người phụ nữ mộc mạc, lương thiện, hết mực yêu thương chồng và con, hi sinh không quản vì sự sống của chồng mình.
Có lúc vì túng quẫn quá mà chị phải bán chó, bán con nhưng tuyệt đối đó không phải là hành động vô nhân tính mà là hành động của một người phụ nữ sắc sảo, bản lĩnh và mạnh mẽ đến kiệt cùng, dù đớn đau đến cắt từng khúc ruột khi phải bán con vẫn một mực chịu đựng vì nghĩ về sự sống của chồng. ngay cả khi bán chó, gia đình cái con sinh vật Nghị Quế chồng, Nghị Quế vợ có ăn bớt, làm điêu thì cũng chỉ hạ một câu: lão Nghị giàu đến thế mà còn…
Không một chút phản kháng, cũng không văng bất kì một lời lẽ tục tĩu nào. Ngay cả khi lên huyện. Sống trong môi trường khác chị vẫn một mực nghĩ về chồng, về con, không bị lây nhiễm thói xấu. Khi thấy cai lệ hành hạ chồng, chị đã vùng lên mạnh mẽ, chị đã bước ra khỏi nỗi sợ của bản thân để chiến đấu, đánh bật hai tên cai lệ lực lưỡng. Chị không chịu khuất phục, Và chính với điều này, Ngô Tất Tố như đã xui người nông dân nổi loạn. Đó chính là phẩm chất cao đẹp mà Ngô Tất Tố đã luôn tin tưởng vào người nông dân trước cách mạng.
Với Nam Cao, ông luôn nhìn đời bằng con mắt tình thương. Chính vì quan niệm ấy mà những trang văn của Nam Cao luôn đặt nhân vật của mình trong tình thế cheo leo giữa nhân tính và thú tính, giữa say và tỉnh, giữa sự sống và cái chết. Nhưng đến cuối cùng Nam Cao vẫn cho thấy sự tin tưởng của mình vào phẩm chất lương thiện của người nông dân. Với lão Hạc, một người cha giàu lòng yêu thương con, có lòng tự trọng cao và đặc biệt là một người ân nghĩa, lão nghĩa tình với cả con vật của mình.
Khi đã tuổi già sức yếu, không làm gì để kiếm ăn được, lão chẳng dám đụng vào số tiền bòn vườn của con, chỉ dám ăn sung luộc. Để rồi lão có thể chọn sống bằng cách bán mảnh vườn đi, nhưng không lão đã tìm đến cái chết, một cái chết đau đớn, tức tưởi thậm chí nhục nhã bằng bả chó.
Nhưng chính cái chết ấy khẳng định được nhâ cách tahnh cao của lão, khẳng định được tính người trong con người của lão Hạc – một người nông dân bần cùng nhưng không bần nghĩa bần tình. Cái chết của Lão đã cho thấy niềm tin của Nam Cao vào vẻ đẹp của người nông dân lương thiện, dù đau đớn, bất hạnh nhưng vẫn giữ trọn phẩm chất tốt đẹp của mình.
Qua hai tác phẩm ngắn nhưng Nam Cao và Ngô Tất Tố đã cho thấy vẻ đẹp của người nông dân trong những trang viết của mình. Đó chính là tinh thần nhân đạo của các nhà văn hiện thực, song ở thời điểm bấy giờ, vì chưa có ánh sáng của cách mạng vậy nên họ vẫn rơi vào bi kịch, bế tắc.
Không chỉ có chị Dậu, lão Hạc mà tất cả những người nông dân nói chung trước cách mạng tháng Tám mặc dù gặp nhiều đau khổ, bất hạnh, nhưng vẫn giữ trọn những phẩm chất tốt đẹp của mình. Trân trọng biết mấy những người nông dân mang những phẩm chất tốt đẹp dù trong bất kì hoàn cảnh nào đồng thời cũng xót xa cho số phận đau khổ của họ.
Khám phá thêm 🌹 Phân Tích Đánh Nhau Với Cối Xay Gió 🌹 9 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Huyện Đường ❤️ 5+ Bài Văn Mẫu Ngắn Hay
Phân Tích Bài Huyện Đường ❤️ 5+ Bài Văn Mẫu Ngắn Hay ✅ Tuyển Tập Những Bài Văn Mẫu Phân Tích Bài Huyện Đường Đặc Sắc Nhất.
Tuồng là một loại hình kịch hát truyền thống của dân tộc, phát triển rực rỡ dưới thời kì nhà Nguyễn ở vùng Nam Trung Bộ. Bên cạnh các vở tuồng nổi tiếng như “Lục Vân Tiên”, “Bên cầu dệt lụa”, “Kiếp nào có yêu nhau” thì vở “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” cũng là tác phẩm đỉnh cao của bộ môn nghệ thuật này. “Huyện đường” là một trong những trích đoạn tiêu biểu của vở tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến”, thể hiện thái độ của người xưa đối với bộ máy cai trị thời phong kiến.
Chủ đề của đoạn trích được thể hiện chủ yếu thông qua các nhân vật: tri huyện, đề lại, mấy tên lính lệ. Trước hết, ngay trong đoạn nói lối, nhân vật tri huyện tự giới thiệu về bản thân mình:
Như vậy, qua lời xưng danh ấy, ta biết được tên tri huyện giữ chức vụ quan trọng ở cửa quan. Hắn được hưởng lợi lộc từ địa vị, làm quan nhờ lỗ miệng, lại cậy quyền lực để lấy của cải của nhân dân. Mặc dù làm quan nhưng hắn phân xử bừa bãi. Người đi kiện thắng thua là nhờ vào đồng tiền đút lót. Người dân nếu không nể sợ thì sẽ bị hắn bỏ vào nhà tù giam kĩ.
Có thể nói, lời tự giới thiệu của nhân vật tri huyện đã cung cấp cho người xem, người đọc một số hình dung ban đầu về nhân vật. Đây là người có bản chất tham lam, mưu mô, toan tính. Ông ta tự tung tự tác làm hại nhân dân.
Đặc biệt, cách xử án càng bộc lộ rõ bản chất xấu xa của tên quan huyện. Vụ kiện tụng xảy ra đã được một thời gian nhưng tri huyện không giải quyết dứt khoát mà cố tình trì hoãn để moi móc tiền của nhân dân.
Khi được đề lại hỏi “quan đã định dứt khoát như thế nào chưa”, tên tri huyện ỡm ờ trả lời: “Tôi thì tôi nghĩ cứ để đu đưa như vậy đã. Thằng Sò này giàu lắm, chúng mình có thể “ấy” được.”. Từ “ấy” trong câu nói này ám chỉ toan tính bòn rút tiền từ tên Trùm Sò của tri huyện và đề lại. Hắn muốn nhân cơ hội này kiếm chác, làm giàu cho bản thân.
Hành động cười khoái trá cho thấy sự hả hê, sung sướng khi hắn tự “thưởng thức” những mưu mô, thủ đoạn của mình: “Phải, nắm đứa có tóc ai nắm kẻ trọc đầu”. Mặc dù cả tên địa chủ Trùm Sò và Thị Hến đều có tội, nhưng tuyệt nhiên hắn chỉ đưa ra hình phạt với Ốc, Nghêu, lí trưởng vì “Thị Hến thì cũng có thể cho về nhưng chưa nên xử vội, vì xử Hến thì phải xử Sò. Thầy hiểu chứ?”. Mục đích hắn không xử Thị Hến là để có thêm thời gian nhận hối lộ từ Trùm Sò. Hắn làm quan nhưng lại không công bằng, phán xét dựa trên đồng tiền.
Những lời nói của tri huyện được hô ứng nhịp nhàng với tên đề lại. Cả hai không cần phải giữ ý với nhau vì họ đều có chung bản chất. Tên đề lại tham lam, lại còn có thói xu nịnh nên khi nghe tri huyện phán vậy liền tấm tắc khen “Vâng ạ, quan xử hay lắm.”.
Ngoài ra, trong đoạn trích, mấy tên lính lệ đóng vai trò tay sai, là trợ thủ đắc lực giúp cho đề lại, tri huyện thực hiện mưu mô của mình. Họ dẫn lí trưởng, Trùm Sò, Thị Hến vào, ra hiệu để ba người đứng lại nói nhỏ. Dù không làm gì nhưng vẫn tỏ vẻ giúp đỡ: “Nhắc lại ông Trùm, anh xã và chị Hến biết rằng hôm nay quan bận lắm, tôi bẩm mãi mới chịu xử vụ này đấy.”.
Qua đoạn trích, tác giả dân gian bày tỏ thái độ châm biếm, mỉa mai. Trong con mắt của người dân, chốn “cửa quan” là nơi bọn quan lại ô hợp, mưu mô để vơ vét và làm hại những người dân “thấp cổ bé họng”.
Có thể nói, văn bản “Huyện đường” nói riêng và vở “Nghêu, Sò, Ốc Hến” nói chung đã lên án nhiều thót tật trong xã hội và lật tẩy bộ mặt xấu xa của một số kẻ thuộc bộ máy cai trị thời xưa. Ngày nay, dù có không ít các loại hình giải trí khác nhưng các vở tuồng vẫn có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam
Học cách 🌸 Tóm Tắt Vở Chèo Quan Âm Thị Kính 🌸 và vẽ sơ đồ tư duy!
Văn hóa nghệ thuật của Việt Nam khá nổi tiếng với nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, mỗi loại hình nghệ thuật có một nét đặc sắc riêng. Trong đó có tuồng – một loại hình nghệ thuật đặc sắc nghiêng về kịch hát có nét truyền thống và âm hưởng cổ của dân tộc. Được hình thành trên cơ sơ là ca múa nhạc để phát triển đến ngày nay.
Với nhiều những tác phẩm tuồng nổi tiếng như “Xuân Đào cắt thịt, Xuân Đào cắt thịt Mộc Quế Anh dâng cây.” Thì vở “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” là một tác phẩm độc đáo và hay nhất trong thể loại này, với những tình tiết vô cùng thú vị và hấp dẫn. Vở tuồng gồm nhiều đoạn trích và “Huyện đường” là đoạn trích nổi bật của vở tuồng này. Nội dung xuyên suốt là thể hiện sự phê phán, cái nhìn bất mãn với chế độ cai trị phong kiến.
Trong đoạn trích “Huyện đường” có thể nói là một câu chuyện về ba nhân vật chính là tri huyện, đề lại, lính lệ với dã tâm mưu mô ở huyện đường đối với vụ kiện của nhiều nhân vật trong vụ trộm Thị Hến. Chủ đề xoay quanh các nhân vật để từ đó lên án phê phán bộ phận quan lại trong xã hội cũ.
Ở những đoạn đầu tiên, trong lời nói lối, tri huyện đã nói và giới thiệu về bản thân trước huyện đường:
Với lời xưng của tên tri huyện, cũng có thể nhận ra chức vụ quan trọng của hắn ở nơi quan. Một tên tri huyện thối nát, lấy quyền lợi từ địa vị, được làm quan nhờ mồm mép và chèn ép dân bởi quyền lực nắm giữ. Làm quan lớn nhưng những gì hắn làm thật đáng chê trách, phân xử bừa bãi, ai đút lót cho hắn nhiều hơn thì hắn xử thắng, đồng tiền quyết định tất cả đúng sai trên phiên xử mà hắn đứng.
Hơn nữa, nếu trái lệnh còn bị giam bỏ tù. Những lời đầu tiên đó, người đọc chắc hẳn cũng hiểu được phần nào tính cách của tên tri huyện này, luôn có bản tính xấu, mưu mô, toan tính và vô cùng tham lam làm cho cuộc sống nhân dân thống khổ.
Ở trên ta đã phần nào hiểu được tính cách và bản chất của tên tri huyện nhưng có lẽ sự bộc lộ rõ nét nhất là từ các xử án, vụ việc xảy ra đã kéo dài về thời gian những không được giải quyết rõ ràng mà cố tình hòa hoãn để lấy tiền từ nhân dân. Đến lúc được đề lại hỏi về vấn đề dứt khoát xử vụ án, hắn chỉ trả lời cho có vì hắn biết Trùm Sò giàu và toan bòn rút hết tiền từ hắn. Đề lại và tri huyện muốn nhân thời cơ làm giàu cho chính mình.
Với nụ cười man rợ và khoái trá, cho thấy những âm mưu thủ đoạn hèn hạ của hai tên quan thối nát. Cho dù cả hai nhân vật Trùm Sò và Thị Hến đều có tội của mình, tuy vậy hắn chỉ xử Nghêu và Ốc vì nếu xử Hến thì phải xử cả Sò điều đó sẽ làm gián đoạn âm mưu nhận tiền từ Trùm Sò, tên tri huyện làm việc dựa trên đồng tiền.
Quan tri huyện xử án vơi những từ ngữ hô ứng với đề lại. Vì cả hai đã hiểu rõ bản chất của nhau đều tham lam, vụ lợi. Đề lại là tên có thói hay nịnh hót, thấy quan xử vậy thì tấm tắc ca ngợi và khoái chí. Có thể thấy, ngoài những nhân vật chính như tri huyện, đề lại thì còn những tên tay sai linh lệ giúp cho đề lại và tri huyện thực hiện những âm mưu của mình.
Qua đoạn trích này, đã bày tỏ những thái độ bất mãn, mỉa mai và lên án một xã hội chạy theo đồng tiền. Đối với người dân, nơi huyện đường chỉ là nơi mà người có địa vị dùng quyền lực để hại dân phục vụ mục đích cá nhân. Như vậy, văn bản Huyện đường và đoạn trích Nghêu, Sò, Ốc, Hến đã nói lên tiếng nói nhân đạo, lên án thế lực chế độ phong kiến xấu xa thời xưa. Có thể nói, tuồng là loại hình nghệ thuật lâu đời, được lưu giữ và phát triển đến ngày nay.
Nhắc đến nghệ thuật kịch hát truyền thống không thể không nhắc đến những vở tuồng nổi tiếng. Nổi bật là vở “Nghêu, Sò, Ốc, Hến với tiếng cười châm điếm hiện thực của xã hội phong kiến xưa tồi tàn, thối nát.
“Huyện Đường” là một đoạn trích tiêu biểu của vở kịch phản ánh thái độ bất bình của người xưa với những vị quan tham ô, ngang tàn thời bấy giờ. Đoạn trích nói về vụ xét xử đầy oan trái, mưu mô của bọn tham quan ô lại.
Chỉ qua vài lời từ giới thiệu, ta có thể thấy thói tham ô, toan tính của tên quan huyện. Hắn nắm chức vụ quan trọng, vơ vét của cải của nhân dân. Tuy làm quan nhưng lại không có bản tính liêm chính, công tư phân minh. Vậy nên, hắn không được người đời kính nể.
Không chỉ dừng lại ở đó, bản tính thối nát của hắn còn được thể hiện qua cách xét sử vụ án. Hắn trì chệ vụ kiện để có cơ hội vơ vét từng đồng hối lộ. Hắn bàn mưu tính kế đủ đường với đề đại, lính lệ để hút sạch túi tiền của người dân.
Hắn vô trách nhiệm đến mức khi được hỏi rằng: Quan đã định dứt khoát như thế nào chưa” mới bập bẹ trả lời: “Tôi thì tôi nghĩ cứ để đu đưa như vậy đã. Thằng Sò này giàu lắm, chúng mình có thể “ấy” được.”. Câu trả lời trên của hắn quả thật không thể chấp nhận được.
Đường đường là một vị quan uy nghi lừng lẫy mà lại dùng kế sách ti tiện để chuộc lợi cho bản thân mình. Từ “ấy” được hắn nhắc đến ở đây có ý chỉ toan tính bòn rút tiền của tên Sò vì nhà của Trùm Sò rất giàu. Hắn còn cười đắc ý với mưu kế của mình. Tuy trong sự việc này, cả Sò và Hến đều có tội nhưng vì đồng tiền mà hoãn lại thời gian xét xử.
Tưởng chừng sự ngang trái đó sẽ được lên án nhưng lại được hùa theo bởi tên đề lại. Tên đề lại cũng đã cấu kết với tri huyện, đua theo nịnh hót để lấy lòng rằng: “Vâng ạ, quan xử hay lắm.”
Với từ ngữ giản dị, gần gũi, tất cả những nhân vật trên đều góp phần làm nổi bật tư tưởng của văn bản. Trích đoạn “Huyện Đường” bày tỏ thái độ nhức nhối của tác giả về một xã hội xưa đầy dãy oan ức dưới chướng cường quyền của những người dân nghèo vô tội. Qua đó, khẳng định tầm quan trọng của kịch tuồng với nét văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc.
Trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” là một trong những vở tuồng nổi bật, được mọi người vô cùng yêu thích. Thuộc cảnh I của hồi thứ II, đoạn trích “Huyện đường” đã phơi bày những mưu mô, toan tính của tri huyện và đề lại nhằm vơ vét của cải của những người thưa kiện. Thông qua nhân vật tri huyện, tác giả dân gian thể hiện thái độ châm biếm, phê phán những tên quan tham lam ở xã hội xưa.
Ngay phần đầu đoạn trích, người đọc đã có được những hình dung khá cụ thể về nhân vật qua lời tự giới thiệu:
Nhân vật không xưng tên cụ thể mà chỉ xưng danh dựa trên địa vị xã hội. Có thể thấy, nhân vật giữ vị trí quan trọng, uy thế lớn ở chốn công đường. Vì làm quan nên tên tri huyện có hoàn cảnh sống đủ đầy hơn người thường “đỉnh chung đà đủ miếng”. Mặc dù là quan “phụ mẫu” nhưng tính cách, phẩm chất lại không hề xứng đáng với chức vụ mà hắn đảm nhận.
Nhân vật thường sa đà vào thói ăn chơi, hưởng lạc, quan hệ trai gái lăng nhăng, không đứng đắn “hoa nguyệt cũng quen mùi”. Đã vậy, hắn còn là người tham lam, hống hách, cậy quyền lực để vơ vét của cải của nhân dân “Lấy của cậy ngọn roi”, “Được thua tự đồng tiền”. Người dân nếu không nể sợ sẽ bị đưa xuống nhà lao giam kĩ.
Trong quá trình phân xử, hắn làm việc không trung thực, thiếu nghiêm túc, thường phân xử bừa bãi “Sự lí thường phân ẩu”. Thế nhưng, hắn vẫn bảo toàn chức vụ của mình nhờ tài ăn nói, nịnh hót. Như vậy, thông qua lời giới thiệu, người đọc có được cái nhìn khái quát về tên tri huyện. Hắn quả là kẻ gian manh, xấu xa.
Tính cách, đặc điểm của tên tri huyện càng được khắc họa rõ nét thông qua cảnh xử án. Khi đề lại hỏi về vụ Thị Hến, Nguyễn Sò, thay vì trả lời dứt khoát, tên tri huyện ỡm ờ, không rõ: “Tôi thì tôi nghĩ cứ để đu đưa như vậy đã. Thằng Sò này giàu lắm, chúng mình có thể “ấy” được.”.
Câu nói của tên tri huyện mang ẩn ý về toan tính bòn rút tiền từ tên Trùm Sò. Biết được Trùm Sò là địa chủ giàu có trong làng nên hắn muốn gây khó dễ để vòi tiền. Tên tri huyện muốn nhân cơ hội này kiếm chác, làm giàu cho bản thân. Mục đích hắn không kết tội Thị Hến là để có thêm thời gian nhận hối lộ từ Trùm Sò “Thị Hến thì cũng có thể cho về nhưng chưa nên xử vội, vì xử Hến thì phải xử Sò, thầy hiểu chứ?”.
Hắn làm quan nhưng lại không công bằng, không giải quyết dứt khoát, cố tình trì hoãn nhằm nhũng nhiễu người kêu kiện.
Hành động cười khoái trá càng lột tả bản chất tham lam, xấu xa của tên tri huyện. Hắn bày ra kế hoạch rồi tự hả hê, sung sướng trước những mưu mô, thủ đoạn của mình: “Phải nắm đứa có tóc, ai nắm kẻ trọc đầu”; “Ăn thua là những chỗ khó đấy đấy, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, nói thế nào lại chả được.”.
Thành ngữ: “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo/ Miệng không vành méo mó tứ tung” trong câu nói này càng làm nổi bật sự tráo trở, lật lọng ở hắn ta. Ngoài ra, câu thành ngữ còn ẩn dụ cho tài ứng biến nhanh lẹ, tùy vào hoàn cảnh, vấn đề mà có thể nói nhiều kiểu khác nhau. Quả đúng là tên tri huyện “làm quan nhờ lỗ khẩu”.
Như vậy, tên tri huyện đã hiện lên một cách chân thực với vẻ xấu xa, xảo quyệt. Nhân vật tri huyện trong tác phẩm mang tính biểu tượng, đại diện cho giai cấp thống trị trong xã hội xưa. Bởi thế, tác giả dân gian không đặt cho nhân vật một cái tên cụ thể mà chỉ gọi chung là tri huyện nhằm phê phán, châm biếm những kẻ đứng đầu bộ máy cai trị tham lam, chuyên bày trò nhũng nhiễu nhân dân. Đồng thời, để khắc họa tính cách, phẩm chất, tác giả dân gian còn xây dựng nhân vật chủ yếu thông qua lời nói và hành động.
Có thể nói, nhân vật tri huyện là nhân vật trung tâm trong toàn bộ đoạn trích “Huyện đường”. Hiểu về nhân vật, ta càng đồng cảm với nỗi niềm của nhân dân. Những chiêu trò, mánh khóe mà tên tri huyện đưa ra cũng là mưu mô, toan tính của một số quan lại chốn nha môn phong kiến.
Với con người trong xã hội phát triển toàn diện, nhu cầu thưởng thức các loại hình văn hóa, văn học đang trở nên phổ biến. Bởi nó không chỉ là món ăn tinh thần trong mỗi người mà còn duy trì những nét đẹp những nét truyền thống quá nhiều thế hệ.
Văn hóa Việt Nam cũng vậy, dân gian có những loại hình nghệ thuật độc đáo có thể kể đến vở kịch “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” là tác phẩm tuồng đặc sắc để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Có thể thấy, đoạn trích “Huyện đường” đã phơi bày những mưu mô, những độc ác mà tên Tri huyện đã mang lại cho nhân dân từ đó chúng ta thể hiện một thái độ lên án thế lực xấu xa trong xã hội cũ.
Đoạn trích Huyện đường nổi bật không chỉ nêu ra những hình ảnh của một phiên xử của xã hội ngày xưa mà còn nổi bật lên nhân vật Tri huyện. Một tên được coi là có địa vị trong xã hội, có vị thế và có quyền – nơi đồng tiền là tất cả chi phối mọi hoạt động của con người.
Với một địa vị như vậy, hắn là người có quyền đã vậy lại còn tính xấu chuyên đi vơ vét bóc lột nhân dân trong mọi hoàn cảnh, đày khổ nhân dân, cướp bóc gây nên những đau khổ, những uất hận trong lòng dân.
Nhờ có việc bóc lột và làm khổ nhân dân, tên Tri huyện sống một cuộc sống vinh hoa phú quý, làm giàu cho chính mình, không phải lo lắng, sung sướng như một vị vua, nhờ những chính sách bóc lột như vậy, tên Tri huyện trở thành một người giàu sang sống trong phú quý.
Không chỉ có địa vị và quyền thế trong xã hội, tên Tri huyện còn là một tên xấu xa bởi tính cách không ai ưa nổi của hắn. Tính cách khó chịu, có tính trăng hoa, không đứng đắn và nhân cách không tốt. Thói xu nịnh cũng là tính nết xấu của hắn.
Để lên được vị trí như ngày hôm nay, hắn đã nhờ vả, tài nịnh hót đã khiến hắn có được địa vị trong xã hội. Luôn có tính xấu xa, làm người có chức quyền nhưng lại không biết thương dân, vơ vét bóc lột nhân dân. Làm việc thì bừa bãi, xử án thiếu trung thực, nghiêm túc. Có thể thấy, nhân vật hiện lên đầy đủ những tính cách xấu xí của người xấu trong xã hội cũ. Ta đã nhìn nhận được phần nào tên Tri huyện xấu xa đầy gian manh và tham lam.
Tính cách xấu xa đã ăn sâu vào bản chất con người tên Tri huyện hắn tìm đủ mọi cách để có thể vơ vét của nhân dân, đặc biệt là cách xử án. Một thái độ không nghiêm túc, sự công bằng là không có đối với tên Tri huyện này, không giải quyết vấn đề đúng đắn và dứt khoát nói đúng hơn là xử án bằng tiền, bên nào nhiều hơn thì bên đó thắng.
Tính trì hoãn, nhũng nhiễu nhân dân cũng là một lí do khiến hắn trở nên xấu xa: “Tôi thì tôi nghĩ cứ để đu đưa như vậy đã. Thằng Sò này giàu lắm, chúng mình có thể “ấy” được.”; “Thị Hến thì cũng có thể cho về nhưng chưa nên xử vội, vì xử Hến thì phải xử Sò. Thầy hiểu chứ?”. Những lời hắn nói quả là một tên vô cùng xấu xa và gian manh, lòng tham vô đáy. Hắn cảm thấy sung sướng với bản thân, nhiều tiền là mục tiêu cuối cùng của hắn.
Như vậy, có thể thấy tên Tri huyện xấu xa và đê hèn, tâm tính mưu mô, xảo quyệt, và đầy toan tính không làm cho dân ấm no hạnh phúc mà chỉ chăm đi vơ vét bóc lột nhân dân. Qua nhân vật Tri huyện, tác giả thể hiện thái độ lên án, phê phán những kẻ đứng đầu, quan lại xấu xa, nhũng nhiễu nhân dân. Tác giả dân gian cũng đã khéo léo khắc họa nhân vật tài tình bởi lời nói và hành động. Tác phẩm vẫn còn nguyên ý nghĩa và giá trị đến ngày nay.
Gợi ý đề tài 🌸 Phân Tích Đi Bộ Ngao Du 🌸 của nhà văn người Pháp!
Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Nhân Vật Tấm Trong Truyện Tấm Cám Dàn Ý & 15 Bài Phân Tích Nhân Vật Tấm
Dàn ý phân tích nhân vật Tấm
I. Mở bài
– Giới thiệu về truyện cổ tích Tấm Cám: Là truyện cổ tích tiêu biểu và hấp dẫn của truyện cổ tích Việt Nam
– Khái quát về nhân vật Tấm: Là nhân vật trung tâm của truyện, có số phận bất hạnh. Tấm có sự trưởng thành, phát triển về nhận thức và hành động trong quá trình chiến đấu với cái ác để giành và giữ lấy hạnh phúc.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh của Tấm.
– Mẹ Tấm chết khi Tấm còn nhỏ
– Cha lấy vợ khác sau đó cũng sớm qua đời. Tấm ở cùng dì ghẻ và em gái cùng cha khác mẹ là Cám.
– Tấm phải làm việc suốt ngày đêm, chăn trâu cắt cỏ, mò cua bắt ốc, xay cám, giã gạo.
→ Là con riêng, lại là phận gái, Tấm phải chịu bao cay đắng, tủi nhục. Hoàn cảnh của Tấm thương tâm, tội nghiệp
– Tấm hiền lành, nết na, chịu khó là hiện thân cho cái thiện. Mẹ con Cám lười biếng, độc ác gây ra bao nỗi bất hạnh cho Tấm, họ là hiện thân cho cái ác.
→ Sống với cái ác, vẻ đẹp của Tấm càng nổi bật. Quá trình chiến đấu với cái ác của Tấm là cuộc đấu tranh để giành và giữ lấy hạnh phúc.
2. Tấm – cô gái hiền lành, yếu đuối, cam chịu.
– Đi bắt tép: Tấm chăm chỉ bắt được đầy giỏ nhưng bị Cám lười biếng lừa lấy hết sạch giỏ tép, cướp lấy phần thưởng.
→ Tấm ngồi khóc và được ông Bụt tặng cho con cá bống
– Đi chăn trâu: Tấm bị mẹ con Cám lừa đi chăn trâu ở cánh đồng xa rồi ở nhà làm thịt cá bống ăn
→ Tấm khóc và bụt hiện lên mách Tấm cho xương cá vào bốn cái lọ chôn vào bốn chân giường.
– Đi xem hội: Tấm bị mẹ con Cám bắt ở nhà nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, không có quần áo mới
→ Tấm lại khóc, Bụt hiện lên, sai đàn chim sẻ xuống nhặt thóc, cho Tấm quần áo, giày, xe ngựa đi trẩy hội. Tấm gặp vua và trở thành hoàng hậu
⇒ Tấm bị mẹ con Cám tước đoạt trắng trợn cả vật chất và tinh thần. Nhưng Tấm chỉ biết cam chịu, bật khóc mỗi lần bị ức hiếp, trà đạp. Tấm luôn trong thế bị động và không có ý thức phản kháng.
⇒ Sự xuất hiện của Bụt là yếu tố kì ảo, là sự hóa thân của nhân dân bênh vực, bảo vệ kẻ yếu, đứng về phía cái thiện
3. Tấm – cô gái mạnh mẽ, quyết liệt chống lại cái ác
– Tấm về ăn giỗ cha: Bị mẹ con Cám lừa trèo lên cây cau rồi chặt gốc cau. Tấm ngã lăn ra chết.
– Tấm hóa thành chim vàng anh hót cho vua nghe, chui vào tay áo vua. Tiếng hót của chim “Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch…chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao” là lời báo hiệu cho sự trở về của Tấm. Mẹ con Cám giết thịt chim vàng anh.
– Tấm hóa thành cây xoan đào tỏa bóng mát cho nhà vua. Mẹ con Cám chặt cây làm khung cửi
– Tấm hóa thành con ác trên khung cửi, trực tiếp tuyên chiến với kẻ thù “Cót ca cót két, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt cho”. Mẹ con Cám sợ hãi đem đốt khung cửi.
– Tấm hóa thành quả thị, hằng ngày bước ra giúp bà hàng nước quét dọn, têm trầu, gặp lại nhà vua và trở về cung làm hoàng hậu.
⇒ Tấm vẫn luôn ở cạnh nhà vua, thực hiện bổn phận của một người vợ.
⇒ Quá trình đấu tranh, phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt không khoan nhượng của Tấm. Tấm không còn nhu mì, yếu đuối, chỉ biết khóc khi bị bắt nạt, biết trông cậy vào sự giúp đỡ của Bụt mà đã kiên cường chống lại.
⇒ Những lần hóa thân của Tấm cho thấy sức sống mãnh liệt của cái thiện trước cái ác.
4. Tấm ra tay trừng trị cái ác.
– Tấm trở về cùng trong sự ngỡ ngàng và sợ hãi của mẹ con Cám
– Hành động trừng phạt: Cho Cám xuống hố, dội nước sôi cho trắng đẹp cho đến chết. Cho dì ghẻ ăn mắm làm từ thịt con gái, kinh khiếp mà chết
⇒ Hành động trừng phạt này phù hợp với quá trình trưởng thành, đấu tranh của Tấm
⇒ Thể hiện ước mơ của nhân dân về một xã hội công bằng, về quan niệm sống “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”.
5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
– Xây dựng những mâu thuẫn có sự tăng tiến để thể hiện sự phát triển trong hành động nhân vật
– Xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập để khắc họa nhân vật
– Sử dụng các yếu thần kì.
III. Kết bài
– Khái quát nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật
– Mở rộng: Tấm là hiện thân của cái đẹp và cái thiện. Hình tượng cô tấm nết na, thùy mị, hiền lành từng là biểu tượng cho vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam với những ví von “Hiền như Tấm”, “Cô Tấm Làng Mai”.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 1Ai đó đã từng nói: “Truyện cổ tích là thế giới hiện thực biết ước mơ”. Vâng, truyện cổ tích nói riêng và văn học dân gian Việt Nam nói chung là tiếng nói, là nỗi niềm, tiếng lòng của người bình dân trong xã hội cũ. Song những tiếng lòng ấy không hề ủy mị, không hề mềm yếu dẫu rằng nó được cất lên trong bùn đen cơ cực. “Tấm Cám” là một truyện cổ tích thể hiện rõ niềm lạc quan, niềm tin của nhân dân lao động. Tấm là nhân vật chính trong truyện hiện lên với số phận bất hạnh nhưng ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn.
“Tấm Cám” là một truyện cổ tích thần kỳ. Truyện kể về cuộc đời số phận của Tấm – cô gái mồ côi, bất hạnh nhưng có phẩm chất tốt đẹp, trải qua nhiều gian nan cuối cùng được hưởng hạnh phúc. Thông qua số phận bất hạnh của Tấm, nhân dân gửi gắm ước mơ, khát vọng lí tưởng xã hội của mình về sự chiến thắng của cái thiện với cái ác.
Tấm là một cô gái có số phận bất hạnh. Tấm mồ côi từ nhỏ: “Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám”. Tác giả dân gian đã đưa người đọc đến với số phận rất quen thuộc trong truyện cổ tích: đó là người mồ côi. Ở với dì ghẻ, Tấm phải sống một cuộc sống khổ cực, bị mẹ con Cám hành hạ. Tấm phải làm lụng suốt ngày đêm trong khi Cám thì thảnh thơi. Đâu chỉ có thế, Tấm còn bị Cám lừa lấy mất giỏ cá. Mất giỏ cá là Tấm mất đi phần thưởng của dì, mất đi cái yếm đẹp, mất đi tình yêu thương mà Tấm khao khát có được. Không chỉ có vậy, khi chỉ còn con cá bống bầu bạn, Tấm cũng bị mẹ con Cám bắt lấy và giết thịt. Cuộc đời Tấm dường như bị bủa vây trong sự hãm hại. Bống là con cá duy nhất còn sót lại trong giỏ cá. Bị lấy mất cá là Tấm mất đi người bạn ngày ngày tâm sự, sẻ chia, mất một niềm an ủi cuối cùng. Tấm là hiện thân của một cuộc đời đày đoạ, tước đoạt, một hình ảnh tiêu biểu cho những số phận thấp cổ bé họng, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội phân chia giai cấp. Bởi vậy tiếng khóc tội nghiệp của Tấm mỗi khi bị chèn ép, áp bức có sức lay động mỗi trái tim nhân hậu, khơi dậy niềm cảm thông chia sẻ ở mọi người.
Nhờ Bụt, Tấm từ một cô gái mồ côi đã trở thành hoàng hậu. Bụt xuất hiện mỗi khi Tấm khóc, buồn tủi cần sự an ủi, giúp đỡ. Tấm bị mất chiếc yếm đỏ, Bụt cho hi vọng là con cá bống. Tấm bị mất cá bống, Bụt lại cho hi vọng. Tấm không được đi xem hội, Bụt cho một cho đàn chim sẻ đến giúp để đi hội làng gặp nhà vua. Lúc đi hội, Tấm làm rơi giày. Chính chiếc giày giúp Tấm gặp lại được vua trở thành hoàng hậu. Đó chính là ước mơ của người xưa về một sự đổi đời trở thành hoàng hậu, bước lên ngôi vị tối cao, là ước mơ, khát vọng lớn lao của người dân bị đè nén, áp bức. Hạnh phúc ấy chỉ dành cho những con người hiền lành, lương thiện.
Tấm là một con người sẵn sàng đấu tranh để giành lại hạnh phúc cho chính mình. Thông qua các cuộc đấu tranh của Tấm, nhân dân lao động gửi gắm niềm tin, ước muốn về khát khao đổi đời,về cuộc chiến thắng của cái thiện trước cái ác. Tấm phải nhiều lần hóa thân: Tấm bị giết hóa thành chim Vàng Anh, Vàng Anh bị giết mọc lên cây xoan đào, xoan đào bị chặt, Tấm hóa khung cửi, khung cửi bị đốt, Tấm hóa quả thị, từ quả thị Tấm bước ra làm người. Cuộc đấu tranh giành lại quyền sống của Tấm là vô cùng gian nan, quyết liệt, không khoan nhượng. Cuộc đấu tranh cho thấy cái ác luôn hiện hữu, luôn xuất hiện đầy ắp hành hạ cái thiện. Khi Tấm trở thành hoàng hậu, mẹ con Cám vẫn đeo bám tiêu diệt Tấm tới cùng. Sự đày đoạ của Tấm đã đến tận cùng, bị tước đoạt cả hạnh phúc lẫn tính mạng.
Lần hóa thân cuối cùng, cô Tấm bước ra làm người đã gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc. Có lẽ hạnh phúc nơi trần thế mới là hạnh phúc đích thực và đáng trân trọng. Hạnh phúc giữa cuộc sống đời thực, được bên cạnh những người mình thương yêu. Đặc biệt, để có được hạnh phúc ấy, Tấm đã phải đấu tranh rất nhiều lần. Nếu như lúc trước lúc khó khăn, đau khổ, Tấm có Bụt hiện ra giúp đỡ thì lúc này đây, Tấm chủ động đấu tranh giành lấy hạnh phúc cho mình. Gửi hồn mình vào chim Vàng Anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị,… sau bao lần hóa thân, bị hãm hại, Tấm trở lại làm người. Tấm lại trở về là Tấm – một hoàng hậu xinh đẹp. Nhưng hạnh phúc sẽ chẳng bền lâu khi cái ác chưa bị diệt trừ tận gốc. Tấm tự tay trừng trị mẹ con Cám, để mẹ con cám phải nhận cái kết thích đáng. Nhân dân đã đứng về phía Tấm, công lý đứng về phía Tấm, hạnh phúc lại trở về bên cô Tấm nết na.
“Tấm Cám” là một truyện cổ tích mà ở đó mà không hề thấy người nông dân bi quan. Cái hiện thực với xã hội bất công vẫn cứ hiện ra thông qua số phận của nhân vật Tấm nhưng cũng qua nhân vật Tấm, nhân dân gửi gắm những ước mơ, khát vọng về cuộc sống hạnh phúc, được thể hiện bằng cốt truyện chặt chẽ, có sự tham gia của các yếu tố thần kì tạo hấp dẫn cho truyện. Thông qua nhân vật Tấm, người đọc hiểu được những ước mơ, khát vọng mà nhân dân gửi gắm, ta thấy được sự đấu tranh của tầng lớp thấp cổ bé họng trong xã hội xưa.
Trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, văn học dân gian đã và mãi có chỗ đứng trong lòng bạn đọc và có giá trị sâu sắc trong kho tàng văn học Việt Nam nói chung. Bởi thông qua văn học dân gian, người đọc hiểu được đời sống cũng như tâm tư tình cảm người nông dân xưa, càng thêm trân trọng hơn kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 2Trong kho tàng văn học Việt Nam ngoài những tác phẩm truyện kí, thơ, phú, cáo…được nhiều người nhắc đến thì chúng ta còn nên nhớ đến một thể loại mà các bạn thiếu nhi hay thích nghe. Đó chính là thể loại truyện cổ tích. Có thể nói những câu chuyện cổ tích như mang hơi thở ngọt ngào của những quan niệm xưa như ở hiền gặp lành, nó là loại truyện mà dành cho trẻ em là nhiều nhất vì nó mang những yếu tố kì ảo lạ thường để cho trẻ em thỏa sức tưởng tượng. Đồng thời nó còn có những cái kết có hậu để dạy dỗ trẻ em làm người tốt. Trong những tác phẩm truyện cổ tích như Thạch Sanh, Sọ Dừa… thì có lẽ truyện “Tấm Cám” cũng hấp dẫn biết bao nhiêu bạn đọc không chỉ trẻ con mà cả người lớn. Đặc biệt trong đó ta thấy nổi bật lên hình tượng nhân vật cô Tấm với những vẻ đẹp của người con gái thuở xưa.
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi, sau đó ít năm người cha cũng chết, Tấm phải sống với dì ghẻ là mẹ của Cám. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả dân gian đã đưa người đọc đến số phận quen thuộc trong truyện cổ tích. Ở với dì ghẻ, Tấm phải làm lụng quần quật suốt ngày đêm, từ chăn trâu, gánh nước đến thái khoai, vớt bèo, đêm xay lúa giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó, Cám và mụ dì ghẻ thì ăn trắng mặc trơn, không phải nhúng tay vào việc gì. Sự hành hạ của mẹ con Cám không chỉ ở thể chất mà còn về tinh thần. Cám lừa Tấm trút hết giỏ tép để giành phần thưởng là chiếc yếm đỏ. Chiếc yếm đỏ là y phục mà các thiếu nữ thời xưa lớn lên đều ao ước. Với cô Tấm nghèo khó, mồ côi nó càng trở nên quý giá. Bởi vậy mất chiếc yếm đỏ cũng có nghĩa là Tấm mất đi hy vọng được nhận yêu thương. Con cá bống còn sót lại trong giỏ cũng bị mẹ con dì ghẻ giết thịt.. Với một cô gái mồ côi, không nhận được sự chăm sóc nào thì chăm chút cho bống là một nhu cầu tình cảm, nhu cầu được sẻ chia. Việc mẹ con Cám giết bống đã phá đi chỗ dựa tình cảm, cướp đi hy vọng vừa mới nhen lên trong lòng Tấm. Lần thứ ba Tấm khóc là khi cô không được đi dự hội làng, tước đoạt ở Tấm cơ hội được gặp gỡ, chia sẻ với mọi người. Cuộc đời của Tấm là hiện thân của cuộc đời bị đày đọa, một hình ảnh tiêu biểu cho những số phận thấp cổ bé họng, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội phân chia giai cấp. Bởi vậy tiếng khóc tội nghiệp của Tấm có sức lay động bao trái tim nhân hậu, khơi gợi niềm cảm thông, chia sẻ của mọi người.
Đặc trưng của truyện cổ tích thường giải quyết mối xung đột thiện – ác theo hướng thiện thắng ác nhờ sự giúp đỡ của những nhân vật thần kì. Cô Tấm hiền lành, chăm chỉ, tốt bụng nên được Bụt giúp đỡ. Tấm mất yếm đào, Bụt cho hy vọng là con cá bống. Mất cá bống, Bụt cho hi vọng đổi đời. Tấm không được đi hội, Bụt cho đàn chim sẻ xuống giúp Tấm. Bụt cho Tấm quần áo đẹp, giày đẹp, đưa Tấm đến gặp nhà vua, giúp Tấm trở thành Hoàng Hậu, đạt đến đỉnh cao của hạnh phúc. Hoàng Hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân có thể mơ ước cho cô gái mồ côi, nghèo khổ trong xã hội xưa. Điều đó một mặt phản ánh ước mơ của dân gian về triết lí “Ở hiền gặp lành” và ước mơ về một sự đổi đời. Từ đó truyện cổ tích đã chữa lành hiện thực cuộc sống, thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, hy vọng ở tương lai công bằng, dân chủ của nhân dân lao động.
Nhưng Tấm Cám không chỉ đến đây là kết thúc, nó còn tiếp thêm một chặng đường nữa của nhân vật. Tấm tuy đã trở thành Hoàng Hậu nhưng vẫn bị cái ác săn đuổi tiêu diệt. Cô Tấm hiếu thảo trèo cây hái cau để cúng cha nhưng bị mẹ con Cám chặt cây giết chết. Nhưng cô Tấm hiền lành ngã xuống thì một cô Tấm mạnh mẽ, quyết liệt sống dậy, hóa thân trở về chống lại cái ác. Cây xoan đào, chim vàng anh, cây thị là nơi Tấm gửi gắm linh hồn, cũng là những vật bình dị thân thương trong cuộc sống dân dã. Nếu như ở phần đầu câu chuyện, mỗi lần Tấm khóc thì luôn có Bụt hiện lên giúp đỡ, thì ở phần sau, cuộc đấu tranh ác liệt hơn nhưng Tấm không còn khóc, cũng không thấy sự xuất hiện của Bụt, chỉ thấy Tấm hành động liên tiếp để chống lại kẻ thù. Sau bao lần hóa thân, Tấm trở về với cuộc đời, với làng quê bình dị, vẫn là cô gái đảm đang trong miếng trầu têm hình cánh phượng. Nhờ miếng trầu mà nhà vua nhận ra người vợ đảm của mình và đưa Tấm về cung. Nhưng Tấm hiểu rằng, không thể có hạnh phúc trọn vẹn khi cái ác còn tồn tại. Vì thế cô đã tự tay trừng trị mẹ con nhà Cám. Kết thúc đó nêu cao triết lí ‘ác giả ác báo” của nhân dân lao động.
Qua hình tượng nhân vật Tấm qua mọi thời điểm cuộc đời nàng ta thấy được vẻ đẹp của người con gái thuở xưa hiền lành lương thiện. Đồng thời nó cũng thể hiện cho quan niệm của ông bà ta là ở hiền thì gặp lành những người ở hiền thì có cuộc sống hạnh phúc những người xấu xa thì phải chịu những hậu quả mà mình tự gây ra. Không những thế ta còn thấy được sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác vô cùng kịch liệt thế nhưng cái thiện luôn luôn thắng. Và con đường đến cái thiện để hạnh phúc là một quá trình gian nan vất vả.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 3Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có rất nhiều thể loại đa dạng và phong phú, trải qua từng giai đoạn, chế độ xã hội có những thể loại đặc trưng riêng; sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ… Song có lẽ truyện cổ tích là một thể loại sử dụng những yếu tố hư cấu, thần kì. Đó là mấu chốt của những câu truyện cổ tích mà thông qua đó tác giả dân gian xưa gửi gắm những ước mơ, khát vọng của người dân về một cuộc sống ấm áp, hạnh phúc, xã hội tự do, bình đẳng…Đặc biệt truyện Tấm Cám tiêu biểu cho thể loại ấy khi đã thành công trong việc xây dựng vẻ đẹp nhân vật Tấm.
Truyện cổ tích là thể loại tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định kể về số phận con người bình thường trong xã hội thể hiện tinh thần nhân đạo, lạc quan của nhân dân lao động. Truyện Tấm Cám kể về nhân vật Tấm với vẻ đẹp và những biến cố mà cô phải trải qua.
Tấm là một cô gái mồ côi cha mẹ, phải sống với mẹ con dì ghẻ. Tấm bị bắt làm việc vất vả, nặng nhọc và bị đối xử bất công. Hoàn cảnh Tấm tiêu biểu cho hoàn cảnh của người con riêng trong chuyện cổ tích. Nhưng Tấm lại có phẩm chất hiền lành, chăm chỉ chịu thương chịu khó. Tấm là hiện thân cho cái thiện, cái đẹp ở người lao động.
Cô Tấm hiền lành chăm chỉ là thế nhưng phải chịu đựng, cam chịu sự đày đọa bất công của mẹ con Cám. Tấm làm việc vất vả còn Cám thì được nuông chiều. Giỏ tép do chính Tấm bắt cực nhọc lại bị Cám cướp mất, chính Cám đã cướp đi thành quả lao động của Tấm. Và cả yếm đỏ đối với người con gái xưa là trang phục thể hiện sự duyên dáng Tấm phải làm việc chăm chỉ để có thể có được nó nhưng lại bị Cám cướp mất, cướp đi quyền lợi vật chất của Tấm. Ước mơ nhỏ nhoi bình dị của Tấm đã không thành hiện thực. Để rồi cá bống con vật duy nhất còn sót lại trong giỏ tép là người bạn tinh thần là niềm vui an ủi của Tấm cũng bị mẹ con Cám bắt mất, họ đã cướp đi người bạn tinh thần của Tấm. Mẹ con Cám vì lòng đố kị và ghen ghét đã cướp đi của Tấm quyền lợi về vật chất và tinh thần.
Và ngay cả khi làng mở hội thì Tấm cũng ngoan ngoãn làm theo lời dì dặn mà không cãi lại cũng không dám chốn đi. Tấm lại khóc và con người hiền lành ấy cũng được bụt giúp đỡ. Và khi đã trở thành hoàng hậu thì Tấm vẫn bị mẹ con Cám hãm hại hết lần này đến lần khác. Ngay địa vị hoàng hậu và cuộc sống giàu sang cũng chưa đủ để cứu Tấm khỏi âm mưu hãm hại của dì ghẻ.
Tấm lại phải trải qua bao nhiêu kiếp nạn khổ đau rồi mới được hạnh phúc. Từng ấy đau khổ, bất hạnh, đày đọa khiến người ta không thể không xót xa, thương cảm. Tấm “nghe lời, bưng mặt khóc hu hu, òa lên khóc, ngồi khóc một mình, nức nở khóc” đã bao nhiêu lần Tấm cam chịu trước sự đày đọa bất công của mẹ con Cám là bấy nhiêu lần Tấm đã khóc. Không chỉ thế Tấm đã rất nhiều lần chết đi sống lại và hóa thân vào nhiều thứ từ hóa thân thành chim vàng anh, rồi thành cây xoan đào, hiện hình vào khung cửi rồi vào quả thị và trở thành người. Tấm phản kháng quyết liệt hóa thân và hồi sinh để đấu tranh giành sự sống và hạnh phúc.
Cô Tấm hiền lành luôn có bụt, những thứ xung quanh như xương cá, gà, cá bống, ngựa, chim sẻ giúp đỡ mà đã vượt qua rất nhiều khó khăn. Tấm được lực lượng thần kỳ phù trợ để chiến thắng được cái ác. Và sự hóa thân thành thị, xoan đào, khung cửi hay vàng anh giúp Tấm giành lại sự sống và hạnh phúc.
Và ngay cả khi trả thù mẹ con Cám thì giờ đây Tấm đã mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Hành động trả thù phù hợp với sự vận động trong hành động của Tấm từ bị động sang chủ động hay đây chính là kết cục của cái ác phải bị trừng phạt.
Hình ảnh đẹp của Tấm mà giúp chúng ta hiểu hơn phần nào cuộc sống của người lao động trong xã hội cũ. Họ bị trà đạp bất công và không có quyền nói lên tiếng nói của mình. Chính vì thế mà họ gửi những ước mơ của mình, niềm tin vào cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn vào trong cổ tích- bình chứa ước mơ của dân gian xưa. Và cô Tấm chính là tiêu biểu cho họ một người hiền lành chăm chỉ, chất phác nhưng luôn luôn bị những thế lực tàn ác hãm hại và cuối cùng cái thiện đã chiến thắng cái ác. Đó cũng chính là mong muốn của người xưa khi gửi gắm vào những câu chuyện cổ tích.
Từ nhân vật Tấm mà chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới nhân vật trong chuyện cổ tích. Dù bị đối xử bất công nhưng họ vẫn đứng lên, đấu tranh để giành lại sự sống cho mình. Điều đó thật đáng ca ngợi và tự hào.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 4Chẳng phải ngẫu nhiên mà Lâm Thị Mĩ Dạ đã viết:
Bởi lẽ, từ khi chúng ta còn thơ bé đã thấm nhuần những câu chuyện cổ của bà của mẹ. Trong số đó, cô Tấm dịu hiền trong truyện cổ tích “Tấm Cám” luôn là hình mẫu lí tưởng để chúng ta ao ước.
Trong truyện, cô Tấm là từ một cô gái mồ côi mà trở thành hoàng hậu. Từ nhỏ đã mất mẹ, cha lại lấy vợ rồi mất sớm, Tấm sống chung với mẹ ghẻ và con của mụ là Cám. Cuộc sống của Tấm bên cạnh mẹ con Cám là một chuỗi ngày cực nhọc, vất vả. Sáng thái khoai, chiều lạ chăn trâu, hầu như ở nhà có việc gì nặng nhọc Tấm đều phải làm hết. Còn Cám chỉ đủng đỉnh ăn chơi tối ngày. Vậy mà cô Tấm chăm chỉ chưa bao giờ than vãn. Nhưng ngay khi chăm chỉ làm việc, cô Tấm cũng bị cướp mất thành quả lao động của mình là chiếc yếm đỏ. Nghe lời mụ dì ghẻ, ai bắt được nhiều tôm tép hơn thì sẽ được thưởng chiếc yếm đỏ. Đó quả là niềm ao ước với cô gái vẫn ngày ngày đầu tắt mặt tối làm việc. Tấm chăm chỉ mò cua bắt tép, do đã quen mà chỉ một lúc đã đầy giỏ. Còn Cám chỉ mải chơi, dạo hết ruộng nọ đến ruộng kia. Tấm vì thật thà, cả tin mà bị Cám lừa gạt lấy mất giỏ tép, cướp luôn yếm đỏ. Tủi thân, Tấm bưng mặt khóc. Sự buồn tủi của cô gái nhỏ đã được bụt giúp đỡ. Khi bụt lên đã trao cho Tấm một người bạn tinh thần vô cùng quý giá. Đó chính là con cá bống. Với một cô gái luôn buồn khổ và cô đơn, bị đối xử tệ bạc như Tấm, cá bống quả là một người bạn vô giá. Hằng ngày, để nuôi sống người bạn đó, Tấm chia phần thức ăn ít ỏi của mình cho Bống, tâm sự với Bống. Tưởng chừng cuộc sống của Tấm dù thiệt thòi nhưng sẽ được yên ổn. Vậy mà, mụ dì ghẻ và Cám lại ghen ghét, ăn thịt mất cá bống. Tấm tủi thân cũng chỉ biết khóc. Bụt liền bày cách chôn xương bống cho Tấm. Tấm răm rắp nghe thôi mà không hay biết rằng những hành động vô tư, chân thành của mình sẽ đem lại những điều bất ngờ sau này.
Cuộc sống của Tấm sẽ chẳng thay đổi nếu như không có yến hội do nhà vua tổ chức. Như bao cô gái khác, Tấm cũng ao ước được đi xem hội. Vậy mà mẹ con Cám nỡ nhẫn tâm cướp mất niềm vui tinh thần đó, hành hạ Tấm bằng cách trộn thóc với gạo và bắt Tấm nhặt, nhặt xong mới được đi chơi. Điều này quả thật là quá sức với cô gái. Tấm lại bưng mặt khóc nức nở. Lúc này Bụt hiện lên và giúp Tấm. Sự chân thành, chăm chỉ thật thà của Tấm đã khiến cô được sự giúp đỡ, được đi chơi hội. Đến chỗ lội, Tấm vì vội vàng mà đánh rơi chiếc giày. Và như một phần thưởng cho cô gái hiền lành, nết na, nhà vua nhặt được chiếc giày và quyết tâm lấy chủ nhân của chiếc giày làm vợ. Cô Tấm từ một cô gái nghèo khổ đã trở thành hoàng hậu trong sự hằn học của mẹ con Cám.
Nếu dừng lại ở đây thì Tấm Cám sẽ rất giống với mô típ lọ lem của các nước trên thế giới. Nhưng phần sau của “Tấm Cám” mới là sự sáng tạo tài tình của nhân dân ta. Hạnh phúc không phải dễ dàng có được, không phải chỉ do Bụt, do may mắn mà có mà con người phải tự đấu tranh để giành lấy. Tấm trở thành vợ vua nhưng vẫn hiếu thảo như xưa. Nàng về quê giỗ cha nhưng không ngờ mẹ con Cám đã giăng bẫy sẵn nhằm giết hại Tấm. Chặt cau khiến Tấm ngã xuống ao chết, cái ác là mẹ con Cám đã đi đến tận cùng. Nếu khi xưa, chúng cướp đi vật chất, tinh thần của cô Tấm thì bây giờ nhẫn tâm cướp đi cả tính mạng của người khác. Cũng từ đây, Cô Tấm hóa kiếp nhiều lần để đòi lại hạnh phúc của mình. Hóa thành chim vàng xanh quấn quýt bên vua, hóa thành cây xoan đào che bóng mát cho người chồng yêu quý, rồi hóa thành khung cửi để chửi rủa Cám. Mỗi lần, cô Tấm càng mạnh mẽ nhẫn nại bao nhiêu thì mẹ con Cám lại càng nhẫn tâm, tàn ác quyết giết hại Tấm bấy nhiêu. Cuối cùng, cô Tấm náu mình trong quả thị ở cùng với bà hàng nước. Rồi như một sự sắp đặt của ý trời và duyên phận. Nhà vua tìm thấy Tấm khi ghé qua quán nước của bà cụ tốt bụng. Tấm trở cùng tìm lại hạnh phúc của mình.
Đáng nói nhất chính là phần kết truyện có nhiều dị bản. Trong đó Tấm dội nước sôi Cám hay làm mắm Cám gửi về cho mụ dì ghẻ. Cũng có bản, cô Tấm tha chết cho mẹ con Cám nhưng sau đó bọn chúng cũng bị ông trời trừng phạt. Xoay quanh mỗi cái kết có nhiều ý kiến trái chiều. Tuy nhiên, dù ở cái kết nào, thì dụng ý của nhân dân ta xưa vẫn mong cô Tấm có thể bảo vệ hạnh phúc của mình và cái ác phải bị trừng trị
“Tấm Cám” là truyện cổ tích thần kì với nhân vật Tấm tiêu biểu cho sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân lao động.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 5Truyện cổ tích “Tấm Cám” thuộc loại truyện thần kỳ về cái thiện và cái ác. Tấm là một nhân vật gặp nhiều nỗi buồn, chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. Khi mà mẹ mất sớm, cha lấy vợ hai nhưng rồi chẳng bao lâu cha Tấm cũng qua đời để Tấm sống với dì và em gái cùng cha khác mẹ.
Mẹ kế của Tấm là người độc ác có nhiều âm mưu, quỷ kế, bà ta thường xuyên hành hạ Tấm, chỉ yêu thương con mình mà thôi. Tấm sống với mẹ kế đã phải chịu nhiều thiệt thòi cay đắng. Cám thì được mẹ nuông chiều, được ăn ngon mặc đẹp, ăn trắng mặc trơn. Ngược lại mẹ kế tìm mọi cách hành hạ, phải làm việc quần quật, suốt ngày đêm.
Tấm vô cùng hiền lành thường xuyên chịu thiệt thòi, còn Cám thì được mẹ nuông chiều nên càng ngày càng ỉ lại, lười biếng không biết làm gì. Cám và mẹ kế là người đại diện cho cái ác, luôn tìm cách hãm hại người khác, đa mưu nhiều quỷ kế.
Một hôm mẹ kế bảo hai chị em đi mò cua bắt tép, Tấm vô cùng chăm chỉ, nên bắt được rất nhiều. Còn Cám thì ngược lại chỉ mải chơi nên chẳng bắt được gì. Nhưng Cám học được tính xấu của mẹ đa mưu túc kế. Chính vì vậy, Cám lừa Tấm xuống áo tắm rửa, ở trên bờ Cám trút hết tôm cá của Tấm vào giỏ mình rồi về nhà lấy công với mẹ trước.
Tấm tắm xong lên bờ thì biết mình không còn gì trong giỏ về nhà sẽ bị mẹ kế đánh đập, chửi bới. Nên Tâm hoảng sợ khóc rất nhiều. Nhưng có một thế giới tâm linh thần kỳ bước ra giúp đỡ những người tốt, Tấm được bụt hiện ra và được giúp đỡ. Người hiền lành luôn gặp được sự may mắn bất ngờ trong cuộc sống. Nó thể hiện chân lý “ở hiền thì sẽ gặp lành”
Trong giỏ của của Tấm có con cá bống, Tấm mang về nhà nuôi dưới giếng, Tấm thường cho các Bống ăn mỗi ngày, nhường phần cơm của mình nuôi cá bống. Nhưng mẹ con Cám rình được biết Tấm nuôi cá bống nên lừa Tấm đi xa rồi ở nhà bắt cá bống lên giết thịt ăn hết. Cá bống bị chết Tấm buồn lắm, nhưng rồi nhờ những lọ xương cá bống mà tấm đã có quần áo đẹp để đi chơi hội.
Ngày hội năm đó, Tấm muốn đi chơi đấy nhưng mà mẹ kế tìm cách không cho Tấm đi, mẹ kế mang một đấu gạo một đấu thóc trộn lẫn vào nhau rồi bảo Tấm hãy nhặt gạo ra gạo, thóc ra thóc, rồi mới được đi chơi hội.
Bụt đã hiện lên và giúp đỡ Tấm, nhưng rồi Tấm lại thấy buồn vì mình không có quần áo đẹp. Nhưng bụt đã hóa phép những chiếc lọ chứa xương cá bống thành quần áo đẹp, xe ngựa và cả hài cho Tấm đi chơi hội.
Rồi Tấm làm rơi một chiếc hài, nhà vua ra lệnh ai đi vừa chiếc hài đó sẽ cưới làm vợ, nhiều người con gái đã thử nhưng không ai đi vừa chỉ có Tấm đi được chiếc hài nhỏ xinh xắn đó mà thôi. Chính vì vậy, hạnh phúc đã đến với người tốt Tấm thành hoàng hậu.
Ngày giỗ của cha Tấm về nhà lo cúng giỗ cha, mẹ kế và Cám âm mưu giết Tấm nên cho Tâm trèo lên cây cau rồi ở dưới họ đã chặt cây cau làm Tấm rơi xuống ao chết đuối. Cám và mẹ kế vội vàng vào cung để thay thế vị trí của Tấm.
Tấm chết oan nên hồn hóa thân thành chim vàng anh, Cám giết thịt vàng anh, nhưng rồi lông chim vàng anh biến thành hai cây xoan đào. Cám chặt hai cây xoan đào làm khung cửi dệt vải, rồi Cám tìm cách đốt khung cửi, bãi tro của khung cửi đó biến thành cây thị, trên cây thị chỉ có một quả thị vừa to vừa thơm.
Một bà cụ thấy vậy mới xin quả thị rơi rụng vào túi của mình mang về nhà ngửi. Rồi từ đó, mỗi lần bà lão đi bán nước, khi về nhà thấy nhà cửa dọn dẹp sạch sẽ, có cơm nước ngon lành. Bà cụ rình trộm thì thấy có một cô gái xinh đẹp từ quả thị bước ra, bà đã nắm tay cô gái và mong cô làm con nuôi mình hai mẹ con nương dựa nhau mà sống.
Rồi Tấm cũng được gặp lại nhà vua hai vợ chồng gặp nhau vui mừng khôn tả, rồi Tấm được đón vào cung tiếp tục làm hoàng hậu sống hạnh phúc bên chồng.
Truyện cổ tích Tấm Cám thể hiện việc người tốt sẽ gặp được những điều tốt lành trong cuộc sống, còn người xấu như mẹ con Cám đều phải trả giá cho hành động tội ác của mình. Truyện cổ tích Tấm Cám thể hiện cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác, người thiện sẽ luôn chiến thắng cái ác. Đó là mơ ước của người dân ngàn đời nay.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 6Truyện cổ tích Tấm Cám thuộc tiểu loại cổ tích thần kì, với kiểu nhân vật người con riêng chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh rất phổ biến trong kho tàng truyện cổ tích thế giới. Tấm là hình ảnh tiêu biểu cho kiểu nhân vật này, sau quá trình đấu tranh không khoan nhượng với cái ác cô đã giành được hạnh phúc về cho mình.
Tấm hiện lên với nhiều phẩm chất tốt đẹp, trước hết Tấm là cô gái chăm chỉ, thảo hiền. Tấm mồ côi cả cha và mẹ, từ nhỏ đã thiếu thốn tình yêu thương. Tấm là cô gái chăm chỉ, hiền lành, mọi việc trong nhà đều một tay cô làm: “hết chăn trâu gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo”, trong lần đi bắt tép cùng Cám, Tấm nhanh nhẹn, tháo vát bởi vậy mà chẳng mấy chốc cô đã lấy đầy giỏ tép. Không chỉ vậy Tấm còn lương thiện, biết chia sẻ với cả những sinh linh bé nhỏ nhất. Được bụt cho con cá Bống, cô nhường cơm, chăm sóc Bống như người bạn. Bống chính là chỗ dựa tinh thần để cô bớt cô đơn sau những giờ phút làm việc cực nhọc. Ngoài ra ta cũng cần thấy, Tấm còn là người con hết sức hiếu thảo. Thân tuy là hoàng hậu, nhưng ngày giỗ cha nàng vẫn về nhà làm giỗ, không chỉ vậy nàng còn đích thân leo lên cây cau để hái cau xuống thắp hương cho cha. Điều đó cho thấy tấm lòng chân thành, hiếu thảo của Tấm với người bố đã mất.
Mặc dù mang trong mình nhiều phẩm chất tốt đẹp để được hưởng cuộc sống hạnh phúc, nhưng cuộc đời Tấm lại chịu rất nhiều bất công. Sự bất công trước hết thể hiện trong phạm vi gia đình, nếu như Cám chỉ mải rong chơi thì Tấm lại là người gánh vác tất cả công việc trong nhà, nàng làm đến khuya vẫn chưa hết việc. Tấm bị bóc lột sức lao động. Không chỉ vậy nàng còn bị tước đoạt niềm vui, bị Cám cướp công giành được cái yếm đỏ; bị mẹ con Cám âm mưu giết chết bống – người bạn tinh thần giúp cô khuây khỏa nỗi lòng. Hình ảnh cục máu nổi lên cho thấy nỗi oan khuất hận thù, Tấm bật khóc nức nở và được Bụt hiện lên giúp đỡ. Sự bất công tiếp tục tăng lên, trong ngày hội, vì ghen ghét mẹ Cám không muốn cho Tấm đi hội, đã trộn thóc với gạo bắt Tấm nhặt riêng mỗi loại rồi mới cho Tấm đi dự hội.
Là người mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp, nên khi gặp những khó khăn, Tấm luôn được Bụt hiện lên giúp đỡ. Lần là đền bù phần thưởng bằng chú cá bống. Lần giúp Tấm có quần áo đẹp đi hội. Cùng bởi là người hiền lành, nên nhất định Tấm sẽ có kết cục hạnh phúc, bởi vậy khi đi qua chỗ lội nàng đánh rơi giày xuống nước, nhà vua nhặt được chiếc giày xinh xắn, ban lệnh ướm thử, Tấm thử vừa như in và trở thành hoàng hậu. Như vậy, nàng Tấm chịu qua bao nhiêu bất hạnh cuối cùng đã có một kết cục viên mãn.
Bên cạnh đó Tấm còn là người có sức sống mãnh liệt, có ý thức đấu tranh giành lại sự sống và hạnh phúc, điều này được thể hiện rõ nhất ở chặng thứ hai của truyện. Chặng thứ hai giúp cho câu chuyện Tấm Cám trở nên sâu sắc, giàu ý nghĩa hơn những câu chuyện cổ tích khác trên thế giới. Nếu như nàng Lọ Lem, chỉ dừng lại ở việc ướm giày xong và thành hoàng hậu sống một cuộc đời hạnh phúc, mẹ con dì ghẻ trốn biệt, không còn gặp lại nữa. Còn mẹ con Cám không chỉ ghen tị mà còn vô cùng độc ác, bức tử Tấm hết lần này đến lần khác. Bởi vậy, Tấm phải trải qua rất nhiều biến cố khác nhau để đến được bến bờ hạnh phúc.
Tấm tuy đã là hoàng hậu nhưng vẫn là một cô gái hiếu thảo, nàng vẫn về nhà và leo lên cây cau hái cau để thắp hương cho cha. Ở dưới, dì ghẻ đã đang tâm chặt gãy cây, Tấm ngã xuống ao chết, cái ác đã được nâng lên một cấp độ mới, sẵn sàng giết chết người khác để thỏa mãn mong muốn của bản thân. Nhưng chính giây phút bị bức hại ý thức trong Tấm đã bừng tỉnh, đúng như nhận xét của nhà nghiên cứu Bùi Mạnh Thị: “Thật kì lạ khi thể xác của cô Tấm bị giết hại thì ý thức của cô thức tỉnh. Dường như có một cô Tấm khác sống dậy không phải để bưng mặt khóc, để bị lừa dối mà tỉnh táo nhận diện, vạch mặt kẻ thù, để tìm lại hạnh phúc đã mất và tự tay trả thù”.
Nếu như ở phần trước của truyện Tấm thụ động, mềm yếu chỉ biết bưng mặt khóc mỗi khi bị áp bức, và nhờ sự trợ giúp của Bụt thì đến chặng thứ hai cô Tấm trở nên kiên cường, chủ động biến hóa từ kiếp này sang kiếp khác, đấu tranh kịch liệt với kẻ thù để giành hạnh phúc. Tấm biến hóa thành: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi với lời đe dọa Cám: “Cót ca cót két/ Lấy tranh chồng chị/ Chị khoét mắt ra”. Và cuối cùng Tấm đã dành được hạnh phúc vốn thuộc về mình, mẹ con Cám bị trừng phạt, công lí dân gian đã được thực hiện: “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật thành công, mang tính khái quát cao, biểu trưng cho một kiểu người trong xã hội. Tính cách nhân vật chủ yếu bộc lộ qua hành động. Cốt truyện đa tình tiết, phát triển tự nhiên, hợp lí, ngoài ra kết cấu hai phần sáng rõ cho thấy sự phát triển trong tính cách nhân vật. Ngoài ra cần phải kể đến những yếu tố, nhân vật thần kì làm phù trợ cho nhân vật chính, đây cũng là yếu tố làm tăng sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Qua tác phẩm ta thấy Tấm hiện lên với những phẩm chất vô cùng đẹp đẽ: hiền lành, chăm chỉ, hiếu thảo nhưng lại chịu nhiều bất công. Nhưng bằng quá trình đấu tranh không khoan nhượng với cái ác cô đã giành được hạnh phúc vốn có của mình. Tấm là nhân vật tiêu biểu thể hiện quan niệm, triết lí: “ở hiền gặp lành” của ông cha ta.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 7Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều câu chuyện cổ tích hay, để lại nhiều bài học sâu sắc và ý nghĩa cho con người về đạo lý, tình người, về phong cách sống, những quan niệm về thiện luôn luôn chiến thắng cái ác, hướng con người đến chữ “thiện” cao đẹp. Truyện Tấm Cám là một trong số những tác phẩm như thế, nhân vật cô Tấm là điển hình cho vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam, vừa đẹp người lại đẹp nết, dù sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn giữ được tính cách nhân hậu, đảm đang, chính vì thế nàng đã có được hạnh phúc sau cùng.
Cuộc đời của cô Tấm được chia ra làm hai phần chính là trước khi vào cung làm hoàng hậu và sau khi vào cung làm hoàng hậu. Và trong cả hai quá trình áy cô Tấm đều gặp rất nhiều khó khăn, vất vả do bàn tay độc ác của mẹ con nhà Cám gây nên. Tấm từ nhỏ đã gặp nhiều bất hạnh, vốn sinh ra trong môt gia đình không mấy khá giả, mẹ mất từ khi Tấm còn nhỏ xíu, cha lại cũng không thương yêu mà vội đi lấy vợ khác, sinh thêm cho Tấm một đứa em là Cám. Kể từ đây cuộc đời Tấm bắt đầu bước vào chuỗi ngày cực khổ không tả xiết, đặc biệt là từ khi cha mất, dì ghẻ lại càng được nước lấn tới hành hạ Tấm, bắt Tấm làm những công việc đồng áng nặng nhọc, còn bản thân mẹ con họ thì ăn trắng mặc trơn.
Tấm trở thành người ngoài ngay trong chính căn nhà của mình, thật bất hạnh biết bao. Thế nhưng Tấm là người chịu thương chịu khó, rất ngoan ngoãn nghe lời mẹ kế, chăm chỉ làm việc, dần dần trưởng thành, trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. lại nết na, đảm đang. Còn ngược lại Cám chỉ biết lười biếng, lại còn hay ghen ghét với chị dù được sống sung sướng. Trong truyện những mâu thuẫn đầu tiên của Tấm và Cám bắt nguồn từ việc dì ghẻ sai hai chị em đi xúc tép, ai xúc được nhiều thì dành cho cái yếm đỏ. Các cô gái trẻ thời xưa thì được cái yếm mới có màu sắc sặc sỡ như thế thì thích lắm, một người vốn hiền lành chẳng tranh giành như Tấm cũng vô cùng ao ước có được cái yếm đỏ ấy. Thế nên Tấm ra sức cần mẫn xúc thật nhiều tép, chẳng mấy chốc mà Tấm đã đầy giỏ, ngược lại cô Cám vì lười lại thêm không khéo léo nên chẳng xúc được con nào. Nhưng vốn là con người láu cá, ranh ma biết tỏng Tấm là người thật thà, lương thiện nên Cám đã lừa Tấm đi gội đầu để trút hết cả tép của Tấm, rồi về và chiếm lấy cái yếm đỏ, theo logic thông thường chắc chắn bà dì ghẻ biết được việc làm của Cám nhưng vẫn mắt nhắm mắt mở bởi Cám là con ruột của bà ta, mà có khi cho dù Tấm có mang được giỏ tép về thật thì chưa chắc đã có được cái yếm. Chung quy lại tấm lòng thật thà chất phác của Tấm thật phí phạm cho mẹ con nhà này. Ngược lại cô Tấm sau khi phát hiện mình bị lừa, thì bất lực chỉ biết ngồi khóc mà không thể làm gì hơn, bởi cô hiểu quá rõ hai mẹ con nhà Cám, chắc chắn cô không thể đòi lại công bằng cho mình và lâu dần những chuyện như này đã trở nên quen thuộc với Tấm, Tấm chỉ biết nhẫn nhịn, cô khóc vì thương tấm thân mình bất hạnh, khổ sở chứ không phải vì không được cái yếm đỏ.
Nhưng có lẽ thấu hiểu được tấm lòng của Tấm, nên trời đã phái Bụt xuống chỉ cho Tấm đem con cá bống về nuôi. Mặc dù không biết nuôi để làm gì nhưng với lòng tin vào sự nhân hậu của Bụt, niềm yêu thương động vật, con cá Bống như là niềm an ủi nhỏ nhoi cho sự bất hạnh của Tấm, giúp Tấm nguôi ngoai nỗi buồn và có thêm một người bạn tâm tình mỗi khi Tấm bế tắc. Dù chỉ là một chú cá nhỏ nhưng Tấm dành cho nó rất nhiều tình yêu thương, tựa như đứa em của mình vậy, Tấm vốn không được yêu thương, nên phần cơm ăn cũng ít, nhưng nàng vẫn chia nửa số cơm của mình để chăm Bống, chính vì vậy Bống lớn nhanh như thổi. Những tưởng Bống sẽ theo Tấm bầu bạn mãi mãi, nhưng không ngờ mẹ con Cám đã sớm theo dõi Tấm từ lâu, đang tâm lừa Tấm đi chăn trâu ở đồng xa, rồi ở nhà giết thịt cá Bống. Xét kỹ hai mẹ con Cám không phải chỉ vì ham ăn thịt con cá Bống mà tất cả chỉ vì xuất phát từ lòng ghen ghét đố kỵ, đang tâm hành hạ tinh thần Tấm, nên mới giết đi vật nuôi của nàng, thật sự rất đáng ghét. Cô Tấm thật thà nghe lời đi làm lụng vất vả, tối về thì lại phát hiện cá đã chết, chỉ còn lại cục máu nổi lềnh phềnh dưới giếng, đây quả thực là cú sốc tinh thần cho Tấm, bởi bấy lâu nay Tấm yêu thương chăm bẵm Bống như người thân ruột thịt vậy mà giờ nó lại bị giết hại một cách tàn nhẫn. Cũng như mọi khi Tấm lại gục mặt xuống khóc nức nở, Bụt hiện ra chỉ cho Tấm nhặt lấy xương của Bống bỏ vào lọ chôn ở chân giường. Tấm không hiểu tại sao lại làm vậy, nhưng cô cũng không hỏi mà chỉ lẳng lặng làm theo, một phần vì xót thương Bống, một phần có lẽ Tấm cũng hiểu được rằng lời của Bụt ắt có huyền cơ, không nên tò mò quá nhiều, tò mò sẽ hại chết con mèo. Điều đó càng chính tỏ Tấm là con người ngay thẳng, hiền hòa, một lòng tôn kính và tin tưởng thần phật.
Chính vì tấm lòng lương thiện, tinh thần chịu thương chịu khó nhưng lại gặp phải nhiều trớ trêu bất hạnh, nên cuối cùng Tấm cũng đã được đền đáp. Ngày Vua mở hội chọn Hoàng hậu, Tấm bị ép ở nhà nhặt đậu, lúc này đây thâm tâm người thiếu nữ vừa bất lực vì một công việc lạ lùng ắt chỉ để hành hạ nàng, vừa đau khổ vì đến cả quyền mưu cầu hạnh phúc như những cô con gái khác nàng cũng không có được. Nàng lại gục đầu xuống khóc, Bụt lần nữa hiện ra, sai chim giúp nàng nhặt đậu chỉ nàng đào xương cá lấy đồ đẹp mặc đi dự hội. Ôi thế hóa ra bao nhiêu công sức của Tấm bấy lâu nay cuối cùng cũng đã được đền đáp, Tấm cuối cùng cũng có một lần hạnh phúc rồi. Như ý nguyện Tấm được vua chọn vào cung trở thành mẫu nghi thiên hạ, vua cũng hết lòng yêu thương Tấm vì nàng vừa đẹp người lại đẹp cả nết.
Sau khi đã trở thành hoàng hậu, cuộc đời Tấm đã bước sang một trang mới, nhưng nàng vẫn giữ được cho mình những đức tính tốt đẹp vô cùng, đặc biệt là tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ. Ngày giỗ cha, mặc dù có thể để kẻ hầu người hạ hái cau để cúng, nhưng nàng vẫn tự mình trèo cây để tỏ lòng thành. Đáng tiếc thay tấm lòng ấy của Tấm lại bị chính mẹ con Cám lợi dụng mưu hại Tấm, nhằm thay thế vị trí của Tấm trong cung. Một điểm mới lạ ở nhân vật Tấm là sau khi trở thành hoàng hậu và chết đi, dường như sự mạnh mẽ trong ý thức của Tấm mới có cơ hội thực sự sống dậy. Tấm không còn là người con gái chỉ biết ôm mặt khóc khi gặp khó khăn mà đã trở nên mạnh mẽ, sẵn sàng trả thù, đòi lại công bằng khi bị kẻ khác hãm hại. Tiêu biểu là việc hóa thành chim vàng anh làm bạn với vua, khiến vua yêu thích không rời, mà bỏ mặc Cám, sau đó lại mọc thành cây xoan đào đẹp đẽ, vua yêu thích mắc võng nằm nghỉ ngơi, khiến Cám đố kị không thôi. Đến khi cây bị chặt làm khung cửi, hồn Tấm vẫn hiện về cảnh cáo, đe dọa Cám rằng: “Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị chị khoét mắt ra”. Cám sai người đốt khung cửi chỗ tro than đó lại mọc thành cây thị, cây thị có độc một quả, quả ấy là hóa thân của nàng Tấm, như vậy sức sống của nàng Tấm mãnh liệt, không ngừng nghỉ dù nhiều lần bị Cám tàn ác ra tay trừ khử, nhưng cuối cùng nhờ tấm chân tình, sự kiên trì mạnh mẽ, Tấm và hoàng thượng vẫn nhận ra nhau nhờ miếng trầu têm cánh phượng xinh đẹp.
Cuối truyện có nhiều người nhận xét rằng, thực ra Tấm cũng không phải là người nhân từ gì cho cam, cũng độc ác khi cho người dội nước sôi xử chết Cám, một số kết khác thậm chí Tấm còn sai người lấy thịt Cám làm mắm cho dì ghẻ ăn để trừng phạt. Quả thực đó là những việc vô cùng tàn nhẫn, nhưng xét vào bối cảnh thời phong kiến, việc ra tay trừng trị như vậy là hoàn toàn có thể, đặc biệt Cám đã gây ra biết bao tội lỗi với Tấm, biết bao lần hành hạ trù dập, thậm chí là giết cả chị, rồi tranh cả chồng của chị. Xét về đạo đức quả thật Cám là người vô sỉ, tội chồng tội, bị chết cũng đáng lắm. Nếu như cô Tấm tiếp tục nhân từ không xử chết Cám, thì biết đâu một ngày nào đó người phải chết lại chính là nàng, Tào Tháo từng có câu rất kinh điển: “Nhân từ với kẻ thù chính là tàn nhẫn với bản thân”, quả đúng trong trường hợp này.
Như vậy cô Tấm là tổng hòa của những vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, nhân hậu, hiếu thảo, chịu thương chịu khó, nhẫn nhịn. Sau khi trải qua nhiều sóng gió từ một cô gái yếu đuối ngây thơ Tấm đã vùng lên chống lại cái ác, với sức sống mãnh liệt, tình cảm thủy chung son sắt với hoàng thượng. Đồng thời sẵn sàng ra tay trừng phạt kẻ thủ ác. Câu chuyện nhằm hướng con người đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống, răn dạy con người về việc “gieo nhân nào gặp quả ấy”, cái thiện luôn luôn chiến thắng cái ác, hướng con người ta sống với những phẩm chất tốt đẹp, tránh xa thói vị kỷ, ghen ghét đố kỵ và ám hại lẫn nhau trong xã hội.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 8Truyện cổ tích Tấm Cám từ lâu đã được biết đến là một truyện cổ tích khá nổi tiếng và thu hút được rất nhiều người đọc và biết đến. Hình ảnh cô Tấm hiền lành cũng luôn xuất hiện trong ký ức của mỗi em nhỏ và trở thành một nhân vật luôn đại diện cho sự hiếu thảo, hiền lành và tốt bụng. Thông qua Tấm thì tác giả dân gian cũng đã gửi gắm rất nhiều ước mơ, lý tưởng về sự công bình. Nhân vật Tấm cũng chính là một nhân vật trung tâm trong truyện cổ tích “Tấm Cám”
Không khó có thể nhận thấy được “Tấm Cám” là truyện cổ tích thuộc kiểu truyện về người mồ côi và đặc biệt dễ nhận thấy được ở truyện lại mang yếu tố thần kì. Truyện cổ tích đặc sắc và tiêu biểu cho cổ tích của Việt Nam thì “Tấm Cám” thuộc loại truyện đã phản ánh số phận của cô gái mồ côi, nhân vật chính trong truyện cũng lại bất hạnh cùng mơ ước luôn mong muốn được đổi đời và công lí xã hội của người lao động chân chất và rất hiền lành. Đọc truyện “Tấm Cám” người ta nhận thấy được số phận của nhân vật trung tâm là cô Tấm. Hình ảnh của cô Tấm dường như cũng đã lại gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại cái ác và cái xấu qua hai chặng đời đấu tranh của cô được thể hiện rõ trong truyện đó chính là người con mồ côi bị ức hiếp và sau khi trở thành vợ vua sống một cuộc sống hạnh phúc và viên mãn nhất.
Tác giả dân gian cũng đã xây dựng nhân vật cô Tấm mồ côi vốn hiền lành, chăm chỉ, luôn luôn bị mẹ con Cám chà đạp và hãm hại không thương tiếc. Ngay ở phần đầu câu chuyện thì người ta đã bắt đầu nhận thấy được sự mâu thuẫn dù còn nhỏ. Đó chính là chuyện đi bắt tép mà mụ dì ghẻ sai Tấm và Cám đi. Nếu ai mà bắt được nhiều hơn thì sẽ được thưởng cho cái yếm đỏ, Tấm thì chăm chỉ nên bắt được nhiều hơn. Cứ ngỡ rằng Tấm sẽ là người nhận được phần thưởng, thế nhưng bằng mưu mô của mình mà Cám đã lừa chị Tấm để trút hết tôm tép vào giỏ của mình và đi về trước nhận thưởng của mẹ. Tấm như bất lực trước hành động của Cám và cô cũng chỉ còn biết khóc mà thôi. Bụt hiện lên và bảo cô nhìn vào giỏ xem còn cái gì không thì quả nhiên còn một con cá bống. Nghe lời bụt dặn thì cô Tấm mang cá bống về nuôi, hàng ngày để dành ra một bát cơm để nuôi cá bống trong giếng cùng với câu gọi mà Bụt căn dặn. Thế nhưng nuôi chẳng được bao lâu thì cá bống cũng bị mẹ con Cám bắt ăn thịt.
Tiếp theo đó chính là sự việc khi được tin nhà vua mở hội, Tấm lại bị dì ghẻ hành hạ bằng cách bắt nhặt thóc gạo trộn lẫn với nhau, xong mới được đi xem hội. Thực sự người đọc như nhận thấy được cứ mỗi lần mà cô Tấm mà bị hà hiếp, Tấm dường như cũng chỉ biết khóc mà thôi. Tiếng khóc của Tấm như chứng tỏ một điều đó chính là Tấm cũng đã ý thức được nỗi khổ của chính mình và đó là một thái độ phản kháng mang tính thụ động và mềm yếu.
Khi cô Tấm lại trở thành hoàng hậu rồi nhưng vẫn bị cái ác tiêu diệt và luôn luôn đe dọa. Hình ảnh cô Tấm hiền lành, lương thiện khi vừa bị giết chết thì ngay lập tức ta lại thấy được có một cô Tấm mạnh mẽ và quyết liệt sống dậy, trở về với cuộc đời để đòi hạnh phúc cho chính mình và ngày càng quyết liệt hơn nữa. Khi cô Tấm hóa vàng anh thì điều này dường như cũng đã lại báo hiệu sự có mặt của mình thì bị giết chết rồi. Cô Tấm thêm lần nữa lại hóa cây xoan đào (khung cửi), và không ngại ngần khi tuyên chiến với kẻ thù thì bị đốt cháy nhẫn tâm. Tro khung cửi vứt bên vệ đường thì lại mọc lên cây thị. Biết bao nhiêu lần chết đi rồi lại tỉnh lại của Tấm như khẳng định một sức sống vô cùng mãnh liệt không hề dễ dàng bị tiêu diệt. Và đó phải chăng cũng chính là thông điệp của người dân muốn gửi gắm cái thiện không bao giờ chịu khuất phục trước cái ác, cũng không bao giờ bị đánh bại. Hình ảnh con chim vàng anh, cây xoan đào (khung cửi) hay đó còn là hình ảnh của cây thị (quả thị) đều chính là những vật cô Tấm gửi gắm linh hồn. Đồng thời những hình ảnh này dường như cũng là những vật bình dị thân thương trong cuộc sống dân dã của nhân dân lao động.
Biết bao lần hóa thân chiến đấu chống kẻ thù, nhân vật cô Tấm trở lại với cuộc đời. Dường như Tấm cũng đã hiểu rằng không thể có hạnh phúc trọn vẹn nếu cái ác còn tồn tại được. Chính vì thế mà cũng đã có hành động ở cuối tác phẩm đó chính là cô lừa Cám tự dội nước sôi lên người và làm mắm gửi về cho mụ dì ghẻ. Khi cái ác bị tiêu diệt hoàn toàn thì lúc đó Tấm mới có thể sống trọn vẹn được hạnh phúc của mình. Và thông qua câu chuyện thì cha ông ta cũng đã thể hiện được những triết lý thông qua câu chuyện cổ tích Tấm Cám này chính là “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo” thực sự cũng vô cùng phù hợp với mong ước của nhân dân về sự trừng phạt kẻ thù. Có thể nhận thấy được sau bao đau khổ, sau bao nhiêu lần Tấm cứ chết đi sống lại nhiều lần thì cuối cùng Tấm nhận được hạnh phúc trọn vẹn nhất.
Hình ảnh cô Tấm nghèo khổ, lương thiện luôn luôn bị các thế lực khác chèn ép và khiến cho cô nhiều lúc đến đường cùng. Thế nhưng đến cuối cùng thì Tấm vẫn được hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Truyện cổ tích luôn được cha ông ta gửi gắm những ước mơ, ước mơ đổi đời của những người lao động nghèo. Thông qua hình ảnh của Tấm sống thảo hiền thì tác giả dân gian cũng đã tái hiện được bức tranh về một xã hội lí tưởng luôn có cái thánh thiện và sống lương thiện luôn được hạnh phúc, kẻ độc ác cũng sẽ bị trừng trị thích đáng.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 9Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cổ tích đã đóng góp một số lượng tác phẩm đồ sộ, có ý nghĩa giáo dục to lớn, hướng con người ta đến tư tưởng hành việc thiện, đấu tranh chống lại cái ác, rèn luyện lối sống tốt đẹp. Cũng như trở thành món ăn tinh thần hấp dẫn của nhiều độc giả thiếu nhi trên khắp cả nước, gắn bó sâu sắc với tuổi thơ của nhiều thế hệ. Trong đó câu chuyện Tấm Cám là một câu chuyện phổ biến, được xếp vào hàng kinh điển, cách xây dựng cốt truyện cùng quá trình chuyển hóa, trưởng thành của nhân vật đã đem đến cho người đọc nhiều xúc cảm, cũng như những bài học nhân văn sâu sắc. Nhân vật cô Tấm là nhân vật trung tâm của tác phẩm, là nhân vật cổ tích được yêu thích trong nhiều thế hệ trở thành hình mẫu lý tưởng, ví von tốt đẹp để chỉ những cô gái xinh đẹp, hiền lành. Mà trong truyện Tấm Cám nhân vật này cũng có khá nhiều khía cạnh tính cách thú vị cần phân tích.
Tấm ngay từ thuở nhỏ đã có cuộc sống khổ cực bất hạnh, mồ côi mẹ ngay từ khi còn bé, ít lâu sau thì bố lại cưới vợ mới. Tuy dì ghẻ ghét Tấm nhưng vì còn bố, nên Tấm cũng đỡ phần này khổ cực. Chỉ không may rằng, không bao lâu sau bố đẻ của Tấm cũng qua đời, khiến cô lâm vào cảnh tứ cố vô thân trong chính căn nhà của mình, ngày ngày phải chịu sự chèn ép của người mẹ kế và cô em gái cùng cha khác mẹ.
Dù là con vợ cả thế nhưng Tấm phải làm việc quần quật bất kể ngày đêm, “hết chăn trâu, gánh nước, vớt bèo, thái khoai, đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc”, trái lại Cám lại được ăn trắng mặc trơn, chỉ quanh quẩn ở nhà không phải làm việc nặng bao giờ. Từ đây người ta thấy được một vẻ đẹp của Tấm ấy là sự chăm chỉ, đảm đang trong công việc lao động. Nhưng đồng thời cũng nhận ra giữa Tấm và mẹ con Cám đã xảy ra mâu thuẫn, ấy là sự đối xử bất công và sự bóc lột sức lao động một cách độc ác, cay nghiệt đối với thành viên trong gia đình. Không chỉ vậy Tấm còn bị bóc lột cả về vật chất và tinh thần, khi mụ dì ghẻ đề ra chuyện thi bắt tép, treo thưởng cái yếm đỏ. Rõ ràng mụ thừa biết rằng cô con gái của mình chẳng bao giờ biết mò tép, nhưng vẫn nhắm mắt trao thưởng cho Cám, còn để Tấm phải chịu thua, trong buồn tủi và ấm ức.
Thế nhưng Tấm là người con gái yếu đuối, nhẫn nhịn, trước sự bất công Tấm dường như quen thuộc và chai lỳ, nàng chỉ biết khóc lóc, tủi phận. Bụt lúc này hiện lên giúp đỡ, chỉ cho Tấm đem Bống về nuôi trong giếng, nàng mới tìm lại được chút niềm vui sống, hạnh phúc khi quanh quẩn bên chú cá nhỏ. Tuy nhiên sự ghen ghét, đố kỵ của mẹ con dì ghẻ không bao giờ buông tha cho Tấm, họ sẵn sàng lừa Tấm đi chăn trâu xa để giết thịt Bống, tước đoạt đi niềm vui và giá trị tinh thần duy nhất Tấm hiện có. Nhưng Tấm trước tình cảnh bị chèn ép như vậy vẫn chỉ cắn răng chịu đựng và khóc lóc, nàng không biết phải phản kháng hay đấu tranh như thế nào. Lần nữa Bụt lại hiện lên chỉ dạy cho Tấm đem xương cá đi chôn, ngày sau ắt có lúc dùng đến.
Tấm đã sống trong căn nhà ấy, với thân phận như một kẻ ở, chịu nhiều khổ sở, bị tước đoạt đi sức lao động, niềm vui, giá trị tinh thần, thậm chí sự cay nghiệt của mẹ con Cám còn tận cùng đến độ tước đoạt của Tấm cả quyền được mưu cầu hạnh phúc. Tấm khao khát được đi chơi hội, bởi dù khổ sở, mệt mỏi với công việc đồng áng, nhưng bản thân Tấm cũng đã lớn, đã trở thành một thiếu nữ, nàng cũng ước mong có những phút giây vui vẻ, giao hòa với xã hội, xa hơn là kiếm cho mình một tấm chồng, có cuộc sống điền viên. Thế nhưng mẹ con Cám không cho Tấm được cái quyền ấy, mụ dì ghẻ đã tìm cách ngăn chặn Tấm mưu cầu hạnh phúc bằng việc trộn lẫn gạo và thóc, rồi bắt nàng phải lựa cho xong rồi mới được đi chơi hội. Rõ ràng đó là một chuyện hết sức khó khăn, Tấm có siêng năng nhặt nhạnh đến đâu thì khi xong hội cũng đã tàn.
Lúc này đây đến cả mong ước cuối cùng cũng bị mẹ con Cám chặt đứt, bản thân Tấm lại không thể phản kháng, sự yếu đuối, nhu nhược khiến Tấm chỉ còn cách khóc lóc để xả mối tủi hờn trong lòng. May mắn thay sự yếu đuối, bất lực của Tấm trước thực cảnh bế tắc lại luôn có sự giúp đỡ của Bụt, Bụt sai một bầy chim đến nhặt thóc giúp Tấm, lại chỉ Tấm đào xương cá lên lấy đồ đi dự hội. Và cuối cùng bằng sự giúp đỡ của Bụt, Tấm đã thoát khỏi sự chèn ép của mẹ con Cám để đến gần hơn với hạnh phúc của bản thân. Đặc biệt sự kiện đánh rơi hài đã dẫn nàng đến một chặng đường mới, mà ở đây nàng vừa được nếm trải hạnh phúc tuyệt vời, cũng đồng thời lại rơi vào mối mâu thuẫn gay gắt hơn với mẹ con Cám.
Nhà vua sau khi mò được chiếc hài của Tấm đánh rơi, thì ra lệnh cho các cô gái lần lượt đến thử hài, ai đi vừa người sẽ lấy về làm vợ.
Mẹ con Cám cũng thử nhưng rất tiếc không vừa, nhưng khi Tấm ướm thử thì vừa in, ngay hôm đó nhà vua đã cho người rước Tấm về làm hoàng hậu, nàng hưởng cuộc sống nhung lụa, ấm êm và có được tình yêu thương của nhà vua, đó là thứ trước đây nàng chưa từng nghĩ đến, đồng thời cũng là sự đền bù cho những ngày tháng khổ cực của Tấm trước đây. Tuy nhiên, sự sung sướng, hạnh phúc của Tấm lại trở thành nỗi ghen ghét oán hận của hai kẻ hám danh lợi là mẹ con Cám. Chúng đã ủ mưu giết Tấm, để đưa Cám thế vào vị trí hoàng hậu thay chị. Còn bản thân Tấm, nàng vốn là người con gái hiền lành, thậm chí nói quá là thì có chút nhu nhược, bản thân nàng không thể nhận ra những âm mưu cay độc của mẹ con Cám khi chúng xởi lởi mời nàng về làm giỗ cha.
Mà Tấm dù ở cương vị hoàng hậu, nhưng nàng vẫn một lòng làm tròn đạo hiếu, sẵn sàng tháo giày, trèo lên cây cau theo lời của dì ghẻ để hái cau vào cúng cha. Sự ngây thơ, tin tưởng sai chỗ cùng với bản tính thật thà của nàng đã trở thành trợ lực khiến kẻ xấu được lợi, còn nàng phải chịu cái chết đầy oan ức. Tuy nhiên cái chết của Tấm đã trở thành nền tảng khiến nàng trở nên mạnh mẽ, không còn thụ động khóc lóc, hay cam chịu như khi còn ở nhà. Bởi lẽ lần này mâu thuẫn giữa nàng và mẹ con Cám không còn nằm ở việc bị đối xử bất công, sự bóc lột các giá trị vật chất tinh thần trong gia đình nữa mà chuyển sang một mâu thuẫn gay gắt hơn ấy là sự tranh đoạt về địa vị, quyền lợi xã hội và quan trọng nhất là mạng sống. Tấm đã vùng lên đấu tranh một cách thần kỳ, cố gắng tìm cách quay trở về hoàng cung bằng các hóa thân khác nhau, ban đầu thì là chim vàng anh, sau là cặp xoan đào, rồi đến khung cửi, cuối cùng là bằng thân xác người phàm chiu ra từ quả thị.
Bộc lộ sức mạnh ý chí tinh thần ham sống mạnh mẽ, quyết liệt, không chấp nhận việc hoàn toàn chết đi để được lợi cho kẻ thù. Không chỉ dừng lại ở ý chí sống còn, mà Tấm còn có những đòn phản công mạnh mẽ, khéo léo, đầu tiên là biến thành chim vàng anh quay về cung quấn quýt bên vua, khiến Cám bị ghẻ lạnh. Khi bị Cám giết, vứt lông ra vườn thì lập tức mọc thành hai cây xoan đào để ngày ngày vua mắc võng hóng mát, Cám tiếp tục nhận lấy sự thờ ơ của vua. Như vậy lần này Tấm mới chỉ đơn giản là giành lại hạnh phúc của bản thân thông qua những hóa thân khác nhau, đồng thời cho Cám nếm trải mùi vị bị lạnh nhạt, xa cách, khiến nàng ta đau khổ vì bản thân còn không bằng một con chim, một cây gỗ vô tri. Điều đó khiến Cám càng trở nên cay độc hơn khi chặt cây xoan đào làm khung cửi, để triệt hạ tận gốc sự sống của Tấm, nhưng đáng tiếc Tấm vẫn quay về với lời đe dọa như dự báo trước một kết cục đầy bi thảm cho sự tàn nhẫn của Cám “Cót ca cót két, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”.
Sự đe dọa trắng trợn và khủng khiếp đã khiến Cám hoảng sợ vô cùng, bèn đem đốt khung cửi và ném tro ra thật xa hoàng cung, những tưởng đã diệt trừ được hậu họa. Nhưng không ngờ từ chỗ tro tàn lại mọc lên cây thị, ra độc một trái to và thơm, rồi được một bà lão bán nước xin mang về để trong nhà. Tấm tái sinh, trở lại làm người sau nhiều lần hóa kiếp, và có cuộc gặp gỡ với nhà vua, chồng nàng nhờ miếng trầu têm cánh phượng. Hai người lưỡng tình tương duyệt, cuộc hội ngộ bất ngờ đã khiến nhà vua vô cùng hạnh phúc, liền lập tức đó Tấm về cung, trả lại vị trí hoàng hậu cho nàng. Tấm sau khi trở về đối với kẻ đã nhiều lần hãm hại mình, nàng không muốn và cũng không cần nương tay.
Cũng như thuở trước mẹ con Cám đã làm với mình, Tấm lập mưu lừa Cám nhảy vào hồ nước sôi bỏng chết, mụ dì ghẻ nghe tin con chết thì cũng lăn đùng ra chết theo. Có thể nói rằng sự trả thù, trừng phạt của Tấm là hoàn toàn thích đáng so với những gì mà mẹ con Cám đã gây ra cho nàng. Tính ra bản thân Tấm đã phải chịu sự tước đoạt mạng sống nhiều lần, và đều do hai kẻ độc ác này gây ra. Thế nên chỉ có cái chết mới có thể đền tội của chúng. Thêm vào đó cái chết và sự tái sinh của Tấm chính là một màn lột xác tất yếu, là sự vùng lên phản kháng mạnh mẽ, khẳng định cái thiện tất sẽ không bao giờ bị hủy diệt và luôn luôn chiến thắng cái ác. Sự mạnh mẽ, dứt khoát, thông minh của Tấm sau khi sống lại mới là một đức tính cần có của người mẫu nghi thiên hạ, chỉ khi nàng trở nên cứng rắn, tự bảo vệ được mình thì nàng mới có được hạnh phúc đích thực. Bởi rõ ràng trong suốt quá trình, khi nàng mới về làm hoàng hậu, dù được vua yêu thương, nhưng bản thân nàng cũng phải chịu cái chết oan ức, vua cũng không tìm cách điều tra nguyên nhân mà dễ dàng cho Cám vào cung thế vị trí của chị.
Tấm Cám là một câu chuyện cổ tích hay và lâu đời có nhiều ý nghĩa giáo dục xoay quanh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, răn dạy con người phải sống lương thiện, không nên làm những việc sai trái, tước đoạt đi vật chất, quyền lợi và cả tính mạng của người khác. Bên cạnh đó nhân vật cô Tấm là một nhân vật có ý nghĩa lớn, đầu tiên người ta ấn tượng với những vẻ đẹp của sự chăm chỉ, hiền lành, biết nhẫn nhịn, sau đó là sức sống tiềm tàng mạnh mẽ thông qua những lần tái sinh chuyển kiếp. Đồng thời là sự trưởng thành trong suy nghĩ, sự cứng rắn trong nội tâm, cũng như sự phản kháng, trả thù mạnh mẽ những kẻ đã gây ra đau khổ cho mình. Khẳng định quy luật muôn đời rằng cái thiện sẽ luôn chiến thắng cái ác dù đó là trong sự vùi dập cường đại của kẻ xấu hay bất kỳ hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo nào.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 10Từ xa xưa, trong kho tàng văn học Việt Nam có vô vàn những câu truyện cổ tích ý nghĩa răn dạy mỗi con người chúng ta. Những mẩu chuyện về tấm lòng nhân hậu, về lòng nhân ái.Trong đó có cả cái thiện luôn luôn hiện hữu xung quanh cuộc sống chúng ta và cái ác luôn bị cái thiện chiến thắng. Truyện Tấm Cám là một trong số những tác phẩm như thế, truyện kể về cô Tấm xinh đẹp đảm nhân hậu luôn bị mẹ con ghì ghẻ ghẻ lạnh và hãm hại. Cô Tấm là điển hình cho vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam, vừa đẹp người lại đẹp nết, dù sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng tâm hồn vẻ đẹp của nàng luôn mãi sáng ngời.
Tấm từ nhỏ sinh ra đã vốn hiền lành nhân hậu. Mẹ Tấm mất sớm, ba tấm lấy vợ hai Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám và rồi sau đó mấy năm cha Tấm cũng qua đời. Ghì ghẻ vốn là người nham hiểm độc ác kể cả về lời nói và hành động. Dì ghẻ phân biệt đối xử với em là Cám, cay nghiệt với Tấm bắt Tấm phải làm hết mọi việc nặng nhọc từ việc nhà đến việc chăn trâu cắt cỏ. Tấm phải làm việc vất vả quần quật từ sáng tới tối mà không hết việc trong khí đó mẹ con nhà Cám luôn ngắm khía ăn trắng mặc trơn. Cám hằng ngày chỉ chơi không phải động tay chân việc gì trái ngược hoàn toàn với Tấm. Ấy vậy mà nàng Tấm hiền lành nhân hậu không hề cãi lại hay tỏ bất cứ thái độ nào cả. Nàng chỉ biết vâng lời và chịu đựng làm theo.
Tấm chịu thương chịu khó, hàng này làm việc đều đặn. Cám sống trong sung sướng chính vì vậy sự nuông chiều quá đà khiến Cám trở thành một con người nham hiểm luôn ghen ghét chị của mình mặc dù được sung sướng giống hệt bản chất của mẹ mình. Sống trong một gia đình nhưng Tấm đã trở thành người ngoài từ bao giờ. Nếu trong xã hội xưa gia đình có hai chị em thì tấm lòng thương thảo yêu thương đùm bọc nhau luôn được đặt lên đầu. Nhưng đối với Cám chuyện giúp đỡ chị mình là điều không bao giờ xảy ra.
Trong truyện những mâu thuẫn đầu tiên của Tấm và Cám bắt nguồn từ việc dì ghẻ sai hai chị em đi xúc tép, ai xúc được nhiều thì dành cho cái yếm đỏ. Vốn làm lụng chăm chỉ thường ngày Tấm ra đồng một lúc là đã bắt được đầy giỏ, Còn về phần Cám sống trong sung sướng đâu biết việc bắt tôm tép là gì. Chỉ rong chơi bắt bướm hết ruộng này đến ruộng khác. Nhưng vốn là con người láu cá, ranh ma Cám lợi dụng tấm lòng tin người thật thà của Tấm mà lừa nàng đi gội đầu tránh việc về nhà bị mẹ mắng. Cám trút hết tép ở giỏ Tấm vào giỏ mình và tung tăng ra về nhận yếm đỏ mặc kệ Tấm. Ngược lại cô Tấm sau khi phát hiện mình bị lừa, chỉ biết ôm mặt rồi khóc. Nàng Tấm trở lên yếu đuối chỉ biết khóc lóc khi gặp chuyện khó khăn, bởi cô hiểu quá rõ hai mẹ con nhà Cám, chắc chắn cô không thể đòi lại công bằng cho mình và lâu dần những chuyện như này đã trở nên quen thuộc với Tấm.
Hiểu được sự bất hạnh của nàng. Bụt xuất hiện và chỉ cách để Tấm nuôi cá Bống còn sót lại trong giỏ. Tấm hiền lành lại có bạn để sống cùng. Cứ mỗi bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Bống lớn nhanh như thổi. Những tưởng Bống sẽ theo Tấm bầu bạn mãi mãi, nhưng không ngờ mẹ con Cám đã sớm theo dõi Tấm từ lâu lừa Tấm để rồi ở nhà thịt cá Bống ăn. Cũng như mọi khi Tấm gọi không thất Bống đâu chỉ thấy một cục máu nàng lại gục mặt xuống khóc nức nở. Bụt hiện lên và rặn Tấm nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường mình. Tấm không hiểu nhưng luôn ngoan ngoãn làm theo.
Khi làng mở hội Tấm cũng bị mụ dì ghẻ tìm cách không cho đi bằng cách bắt nàng nhạt đậu. Nàng lại gục đầu xuống khóc, Bụt lần nữa hiện ra, sai chim giúp nàng nhặt đậu chỉ nàng đào xương cá lấy đồ đẹp mặc đi dự hội. Cuối cùng hạnh phúc đã đến với Tấm. Nàng được Vua chọn làm hoàng hậu, đưa về hoàng cung hết mực chiều chuộng.
Cuộc đời Tấm sau khi vào cung đã được như ý muốn hạnh phúc và vui vẻ. Nhưng rồi mẹ con Tấm đâu để nàng sống dễ dàng. Dù đã là Hoàng hậu nhưng Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha – đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây, con cái không bao giờ được quên công ơn dưỡng dục của cha mẹ. Nàng trở về thắp hương cha và bị mẹ con Cám hại chết. Cám vào hoàng cung thay thế Tấm nhưng rồi cái ác đâu thể hiểu được hạnh phúc. Cám luôn bị vua ghẻ lạnh không quan tâm, hàng ngày luôn nhung nhớ Tấm.
Tấm hóa thân thành vàng anh quay về hoàng cung gặp vua nhưng lại bị mẹ con Cám giết hại và bịa chuyện nói dối Vua. Sau đó, Tấm lại hóa thân thành hai cây xoan đào đẹp đẽ hàng ngày rủ bóng, vua đi ngang qua thấy vậy liền sai quân lính mắc võng nằm nghỉ. Bản tính nham hiểm độc ác của Cám lại trỗi dậy, Cám sai người chặt cây đóng làm khung cửi rồi lấy cớ do bão nó với Vua. Hàng ngày, Cám ngồi dệt vải trên chiếc khung cửi đó, Tấm lại đem lời mà dọa Cám. Thấy vậy, Cám sợ hãi sai người đốt khung cửi mà đem tro đi đổ cách xa hoàng cung. Cũng từ đống tro ấy mọc lên một cây thị mà lại một trái rất thơm. Bà hàng nước thấy vậy muốn đem ý mang thị về nhà. Trước đây, Tấm là một người yếu đuối, hiền lành hễ gặp chuyện là chỉ biết khóc, chính hoàn cảnh khó khăn khốc liệt đã đánh thức nàng trỗi dậy, khiến nàng trở lên mạnh mẽ hơn mà không cần nhờ đến sự giúp đỡ của Bụt.Tấm chính là hiện thân một con người nhân hậu hiền lành, chịu thương chịu khó vì hoàn cảnh khó khăn éo le nhưng vẫn sáng lên ý chí chiến đấu, vựơt lên cái ác những điều cám dỗ mà sống một cách mãnh liệt.
Từ sau hôm đó, hàng ngày Tấm lại bước ra từ quả thị giúp đỡ bà việc nhà. Thấy làm lạ bà hàng nước lén trộm nhìn rồi xé vụn vỏ thị để nàng ở lại. Nàng và bà sống vui vẻ với nhau. Một hôm vua đi ngang thấy quán nước sạch sẽ lên ghé lại nghỉ ngơi, Vua nhìn thấy miếng trầu têm cánh phượng giống hệt như vợ mình liền hỏi truyện và biết đó là Tấm. Vua rước Tấm trở về hoàng cung và cùng nhau sống hạnh phúc. Còn mẹ con Cám thì độc ác xấu xa đã phải chết một cách tất tưởi. Chúng phải chết trong nồi nước sôi nóng. Đó chính là kết cục của kẻ ác.
Qua câu chuyện “Tấm Cám” ta thấy được hình tượng của Tấm chính là biểu trưng cho sự đấu tranh gay gắt giữa sự bất công, mâu thuẫn trong nội tại mỗi con người, nhưng qua cuộc đấu tranh ấy, hình tượng nhân vật Tấm lại được sáng lên với những bài học vô cùng sâu sắc và ý nghĩa. Cái ác sẽ không thể nào chiến thắng cái thiện và nó sẽ luôn luôn bị trừng trị.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 11Từ xưa cho đến nay thì những câu chuyện cổ tích như mang hơi thở ngọt ngào của những quan niệm xưa đã gửi gắm đến thế hệ của chúng ta triết lý như ở hiền gặp lành. Tấm Cám luôn luôn là một trong những truyện dành cho trẻ em và được yêu thích nhiều nhất. Trong truyện thì ta thấy nổi bật lên hình tượng nhân vật cô Tấm với những vẻ đẹp của người con gái thuở xưa hiền lành và chăm chỉ.
Trước hết khi nói về gia cảnh của Tấm, nhân vật Tâm được sinh ra trong một gia đình cũng khá giả thế nhưng mẹ cô mất sớm. Ít lâu sau thì cha cô lấy vợ hai. Cô Tâm phải sống trong gia đình có mụ dì ghẻ ấy độc ác và rất ghét con chồng, nó dường như cũng đã lại thể hiện được một thực tế hiện nay đó là “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chông”. Cũng chẳng bao lâu sau cha Tấm cũng mất nốt Tấm bị mụ dì ghẻ phân biệt đối xử với em là Cám. Nhân vật Tấm phải làm lụng cả ngày và cô hay bị mắng nữa. Với một cốt truyện này là một cốt truyện thường thấy trong truyện cổ tích để có thể nói lên những vẻ đẹp cũng như ở hiền gặp lành như các nàng công chúa xinh đẹp vậy
Có thể nói rằng chính hình ảnh cô Tấm hiện lên đẹp qua cái tên của cô nữa. Cô Tấm bình thường là một hạt gạo khi mà sát ra lại vỡ nhỏ. Cái tên như cũng đã phản ánh được nét văn hóa của dân tộc Việt Nam bởi hạt gạo như là hạt ngọc của đất nước. Cái tên dường như cũng đã lại cho thấy cái giản dị mộc mạc của cô Tấm thông qua cái tên. Hình ảnh cô tấm hiện lên là một người con gái hiền lành hiếu thảo và rất là lương thiện. Cho dù cha có lấy vợ hai đi nữa thì cô cũng không có ý kiến gì cả. Người đọc cũng có thể nhận thấy chính trong khoảng thời gian sống cùng nhau ấy dẫu cho mụ dì ghẻ ấy có đối xử với Tấm như thế nào thì cô cũng không than thở, hay oán trách đến nửa lời. Thực sự lòng cô lương thiện đến mức không vấy bẩn bởi sự ghen tuông ghét dì ghẻ. Cô Tấm đã vậy cũng lại còn rất trong sáng hiền lành và luôn nhường nhịn Cám kể cả biết mình thiệt thòi. Nhân vật cô Tấm hiện lên không chỉ đẹp về nhan sắc mà còn ở phẩm chất cũng như đức hạnh.
Sự mâu thuẫn của Tấm và Cám bắt đầu từ vụ việc vụ dì ghẻ bào rằng hai chị em Tấm Cám để đi mò cua xúc tép ai mò được nhiều hơn thì sẽ được thưởng cho một chiếc yếm đào. Dĩ nhiên Tấm vốn ngoan ngoãn hiền lành xúc mải mê đến chiều thì cũng chính bởi cô quá tin người và hơn hết nhân vật Tấm cũng lại rất hiền lành mà Cám lúc này đây dường như cũng đã lừa tấm và trút hết giỏ cá của Tấm. Khi Tấm lên bờ thấy mất cá cũng chẳng biết làm gì ngoài việc khóc một mình. May thay được Bụt hiện lên và giúp đỡ, dặn cô về nuôi Tấm hiền lành không hôm nào quên cho bống ăn nên bống lớn nhanh lắm.
Nhân vật Tấm còn hết sức hiền lành, thậm chí là cam chịu cả khi làng mở hội Tấm cũng bị mụ dì ghẻ tìm cách không cho đi Tấm bị mụ dì ghẻ như cũng đã làm khó Tấm dường như cũng ngoan ngoãn ma làm theo và cô cũng lại không cãi lại mụ cũng không dám trốn đi đâu. Cô Tấm cũng đã lại khóc và con người hiền lành ấy lại được Bụt giúp đỡ. Ngay cả khi Tấm được vào cung làm hoàng hậu thì đến thì cũng vẫn giúp đỡ mẹ con cám. Thế rồi cũng chính ngày giỗ bố vẫn về không quản khó khăn mà cũng đã trèo lên cây vặt cau giỗ bố mắc mưu của dì ghẻ hại chết chính mình.
Người đọc cũng nhận thấy được Tấm dường như không chỉ đẹp tâm hồn lương thiện mà Tấm còn đẹp bởi nhan sắc của mình. Cô Tấm vốn xinh đẹp da trắng và sự thật khi lấy được hoàng thượng thì quả thật đã thể hiện được vẻ đẹp ấy biết nhường nào.
Sau lần bị hãm hại ấy Tấm biến thành nhiều vật khác nhau và đều bị mẹ con Cám làm cho chết hết lần này qua lần khác. Thế nhưng chính sự biến thành những vật khác nhau mỗi lần chết ấy truyện ngắn này nhằm nói lên sức sống của cái hiền cái thiện thì không bao giờ là mất đi mãi mãi cả, nó dường như chỉ biến sang dạng khác mà thôi. Chính những lần biến ấy thể hiện được vẻ đẹp trưởng thành của nàng Tấm. Cô vẫn tốt bụng như thế nhưng cô không ngây thơ chỉ biết ngồi ôm mặt khóc nữa. Nhân vật cô Tấm cho dù cũng không hóa thành người nhưng cô vẫn có thể hăm dọa và khuyên nhủ mẹ con nhà Cám đã hại mình. Thế rồi cho đến khi biến thành quả thị Tấm được trở về với hoàng thượng và có một cuộc sống ấm no hạnh phúc về sau. Còn mẹ con Cám thì độc ác xấu xa đã phải chết một cách thê thảm. Thực sự chính sự sống của Tấm như thể hiện, biểu trưng cho sự sống của hiền lành đức độ cái tốt ở trên đời này.
Qua hình tượng nhân vật Tấm khi mà trải qua mọi thời điểm cuộc đời nàng ta thấy được vẻ đẹp của người con gái thuở xưa hiền lành lương thiện. Đồng thời qua nhân vật Tấm người xưa cũng thể hiện cho quan niệm ở hiền thì gặp lành những người ở hiền thì gặp lành. Những người sống lương thiện sẽ có cuộc sống hạnh phúc những người xấu xa thì lại phải gánh chịu những đắng cay.
Phân tích nhân vật Tấm – Mẫu 12Những câu chuyện cổ tích không còn xa lạ đối với mỗi chúng ta, trong kho tàng văn học nước ta có rất nhiều câu chuyện cổ tích với những tình tiết đầy sự hão huyền, siêu nhiên nhưng đan xen vào đó là những bài học quý giá mà câu chuyện muốn đem lại cho chúng ta, truyện Tấm Cám, với nhan đề đã làm nổi bật nên nhân vật Tấm trong truyện.
Nhân vật Tấm sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng thật buồn cho Tấm mẹ mất sớm, cha lấy vợ hai, một thời gian, cha cô mất, cô phải sống với mẹ kế độc ác, và cô em gái cùng cha khác mẹ lười biếng. Ngày xưa các cụ có “ mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ kế lại thương con chồng” cho thấy được sự độc ác của mụ dì ghẻ mà Tấm phải chịu đựng.
Ngay cái tên đã thể hiện Tấm là một cô gái nết na, thùy mị. Cái tên mang sự hiền dịu, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó, cho thấy sự mộc mạc của người con gái Việt Nam, trong thời gian ở với mụ dì ghẻ Tấm không than thở kêu ca mà vẫn nghe lời, làm việc chăm chỉ. Tấm thường xuyên chịu thiệt thòi cay đắng , còn Cám thì được nuông chiều, được ăn ngon mặc đẹp, mẹ kế tìm mọi cách để hành hạ, bắt Tấm làm mọi việc.
Khi mẹ bảo Tấm và Cám đi bắt tôm tép ngoài sông, trong khi cô Tấm chịu khó bắt tôm, cá, ốc thì Cám lại mải chơi, không làm việc để rồi lừa Tấm lấy hết số cá, tôm mà Tấm bắt được mang về để báo với mẹ. Khi đang không biết phải làm sao thì Ông Bụt hiện lên, cũng kể từ đây nhờ sự giúp đỡ của ông mà cuộc sống của Tấm đã phần nào bớt khổ cực mà cô phải chịu. Người xưa có câu “ở hiền gặp lành” để thấy được sự lương thiện trong mỗi con người, sống lương thiện chắc chắn sẽ được báo đáp.
Không những đẹp về đức tính mà Tấm còn đẹp về cả tâm hồn và vẻ bề ngoài, thế vậy nàng được nhà vua để ý đưa về cung làm hoàng hậu, thương xót vì tình cảm gia đình mà Tấm mang mẹ con Cám vào cung ở cùng nhưng chính hành động này đã khiến Tấm phải chết đi sống lại nhiều lần.
Và mỗi lần hóa thân thành nhiều sự vật khác nhau Tấm lại toát lên sự lương thiện của mình, và mỗi lần như vậy làm tấm trở nên trưởng thành hơn, vẫn tốt bụng nhưng cô đã biết đấu tranh bảo vệ bản thân, hạnh phúc của mình, hạnh phúc của mình không muốn về tay người khác, đấu tranh lại cái ác, có câu thiện luôn thắng tà cho thấy sự bao dung, vị tha luôn hơn những kẻ tham lam, ích kỷ chỉ biết bản thân mình.
Từ con chim vàng anh bị Cám mang đi giết rồi chôn xa, đến cây xoan đào cũng bị mẹ con Cám chặt đi làm thành khung cửi, nhưng khung cửa cũng bị mụ dì ghẻ đem đốt đi, qua những hành động đấy mới thấy sự độc ác của mẹ con nhà Cám, dùng mọi mưu kế, sự độc ác để hãm hại Tấm không muốn cô được sống trong hạnh phúc.
Advertisement
Khi Tấm hóa thân thành quả thị gặp được bà lão bán nước tốt bụng xin quả thị rơi rụng vào túi của mình mang về ngửi chứ bà không ăn, sau khi bà lão mang về, mỗi lần đi làm về thấy nhà cửa dọn dẹp sạch sẽ, có cơm nước ngon lành. Rồi một hôm bà rình trộm thấy một cô gái xinh đẹp bước ra từ quả thị, bà bắt cô lại và mong cô làm con nuôi từ đó hai mẹ con nương dựa vào nhau mà sống.
Một thời gian sau, nhà vua đi du ngoạn qua quán nước dừng lại mới thấy miếng trầu rất giống mà vợ mình thường têm, nhà vua mới hỏi bà lão miếng trầu này ai làm, cuối cùng Tấm gặp lại nhà vua hai người gặp nhau vui mừng sau bao tháng ngày xa cách, rồi Tấm được đưa trở về cung và sống hạnh phúc bên nhà vua.
Còn mẹ con Cám bị đuổi ra khỏi cung, cho thấy sự lương thiện trong đức tính của Tấm, qua nhân vật Tấm thấy được sự tốt bụng trong tâm hồn, và lối sống của người con gái Việt Nam, để từ đây hạnh phúc luôn đến với những người tốt bụng. Kết quả xấu đối với những kẻ chỉ biết bản thân, hãm hại người khác, sau cùng phải chịu những hậu quả do chính mình gây ra cho người khác.
Nhân vật Tấm đã được xây dựng một hình ảnh hoàn mỹ, một người đẹp cả ngoại hình lẫn tính tình, làm biểu tượng sáng cho người phụ nữ Việt Nam, làm cho chúng ta hiểu thêm giá trị cuộc sống, khi ta sống tốt, sống đẹp ắt sẽ có người giúp đỡ mình và nhận được hạnh phúc mà mình vốn nhận được.
Phân tích nhân vật Tấm trong Tấm Cám – Mẫu 13Từ ấu thơ, ta lớn lên trong tiếng ru ầu ơ của mẹ, trong câu hát em thơ và những chuyện ngày xửa ngày xưa bà thường hay kể. Ta biết mẹ Âu Cơ sinh con từ bọc trăm trứng, biết Sơn Tinh –Thủy Tinh giao tranh vì nàng công chúa xinh đẹp, kiều diễm, biết Thánh Gióng lớn lên cầm tre mà đánh giặc và ta cũng biết cô Tấm nết na bước ra từ quả thị. Câu chuyện về Tấm một lần nữa được gợi nhớ trong tác phẩm Tấm Cám.
Tục ngữ có câu “Cha chết ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá đầu chợ”, nó như là minh chứng cho nỗi thiệt thòi của đứa trẻ thiếu mẹ. Tất cả những cơ hành tấm phải chịu đựng đều đến từ sự tàn nhẫn, ích kỉ của mẹ con Cám. Tấm chọn sự câm lặng, dùng giọt nước mắt để vơi bớt tủi thân. Cuộc thi để có được yếm đào càng khẳng định với Tấm mỗi món đồ nhỏ bé đều quý trọng. Tấm khóc không chỉ vì nỗi thương mình mà còn bởi chút hi vọng được nhận yêu thương cũng tan biến mất. Đến chú bống bé nhỏ bầu bạn với Tấm cũng bị giết, Tấm lại khóc. Với cô gái mồ côi không được nhận sự chăm sóc nào như Tấm thì việc cô nuôi cá bống cũng như đang vun vén cho chính cuộc đời mình, như để tìm tiếng nói đồng điệu, đồng cảm. Vì vậy, việc giết bống cũng như dập tan nơi tựa của cô gái đơn côi. Lần thứ ba, khi mọi người từ già đến trẻ, từ giàu đến nghèo đều được đi hội, đều hòa vào dòng người đầy vui tươi náo nhiệt thì tấm lẻ loi giữa chính cuộc đời. Mẹ con cám dùng mọi âm mưu cản bước chân Tấm. Nỗi đau và sự tủi thân được đẩy lên cao trào, uất ức đến tận cùng, Tấm lại khóc.
Mỗi khi Tấm gặp khó khăn hay đau khổ, Bụt đều dang rộng tay mà nâng đỡ. Không có yếm đào, Tấm được tặng cá bống. Mẹ con Cám làm khó, Bụt cho chim sẻ đến giúp Tấm. Bụt đã được dân gian hoá, trở thành ông lão hiền lành, tốt bụng, hóa phép cho số phận hẩm hiu cho người nghèo. Không chỉ Bụt mà những con vật nhỏ bé bên cạnh cũng góp công không nhỏ giúp cô trên đường tới hạnh phúc. Rõ ràng, việc Tấm trở thành hoàng hậu là hoàn toàn hợp lý, đó chính là hạnh phúc tươi đẹp và xứng đáng nhất.
Tấm đã có hạnh phúc nhưng hạnh phúc ấy sẽ không vẹn nguyên, sẽ méo mó khi có sự tồn tại của mẹ con Cám. Cái chết nhục nhã và đau đớn của mẹ con Cám là hậu quả của hành động tàn nhẫn với tâm địa độc ác bởi người xưa thường nói “gieo nhân nào gặt quả nấy”. Riêng Tấm được sống lại với bình yên, được trở về hạnh phúc sau bao thử thách, bao chông gai, bao cố gắng và quyết tâm. Có lẽ chính tinh thần, ý chí và sự bền bỉ của con người đã chiến thắng mọi gian ác. Cuộc sống là cuộc hành trình đầy gian lao mà ta phải gồng mình gánh vác, đấu tranh vì hai từ “hạnh phúc”. Ta cũng thấy một cái kết có hậu đậm tính nhân văn làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm. Ta phải biết trân trọng và gìn giữ những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, đừng nên chạy theo những xa vời, mơ hồ bởi mọi yên bình và tốt đẹp đều nằm trong tay ta và tồn tại ngay trong cuộc sống thường ngày. Đúng như dân gian có câu:
Chim vàng anh, cây xoan đào (khung cửi), cây thị (quả thị) là hình hài Tấm hóa thân, cũng là linh hồn của làng quê với tất cả mộc mạc trong cuộc sống dân dã làm nên ấn tượng thẩm mĩ cho câu chuyện. Nếu như ở phần đầu truyện, mỗi lần Tấm khóc Bụt đều dang rộng vòng tay cưu mang thì càng đến cuối chuyện, Tấm không còn nhờ cậy vào bất kì phép màu nào mà cứng rắn, kiên quyết hành động đến cùng. Cũng chính nhân dân lao động, những người có thân phận như Tấm đang dùng hết sức mình, oằn mình trước thử thách, vững bước trước gian lao để bảo vệ hai chữ hạnh phúc được tròn đầy. Quả đúng, hạnh phúc chỉ bền chặt khi ta biết dũng cảm giành và giữ lấy. Vì vậy, nếu lúc đầu mỗi lần Tấm uất ức chỉ biết ngồi khóc, còn Bụt làm thay tất cả, thì đến đây chim vàng anh, khung cửi, quả thị (yếu tố kì ảo) không thay Tấm trong cuộc chiến đấu mà chính nó là hình hài giúp tấm trở về quyết liệt hơn.
Sau hành trình đầy gian lao, sau cuộc chiến không khoan nhượng, Tấm trở lại với dịu hiền, với thương yêu trong hình ảnh miếng trầu têm cánh phượng. Miếng trầu là hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống văn hoá Việt Nam, gắn với phong tục hôn nhân người Việt “Miếng trầu nên dâu nhà người”, “Miếng trầu ăn ngọt như đường, đã ăn lấy của phải thương lấy người”…
Có lẽ cô Tấm đã trở thành “nàng thơ” trong trái tim mỗi người với tất cả xinh đẹp, dịu dàng, đoan trang, mạnh mẽ, quyết liệt. Chính cuộc đời Tấm và chặng đường đấu tranh của cô càng khẳng định chân lý cuộc sống là một cuộc hành trình có cả những vấp ngã chông gai, những tủi hờn, hành động hôm nay sẽ quyết định hạnh phúc của mai sau.
Phân tích nhân vật Tấm hay nhất – Mẫu 14Trong chiếc nôi văn học Việt Nam,những câu truyện cổ tích đã góp phần làm nên vẻ đẹp của văn học Việt. Những câu truyện cổ tích như tiếng nói của lớp người bình dân trong xã hội phong kiến. Dẫu có bị “vùi trong lớp bùn” của cuộc đời, thế nhưng những mảnh đời nhỏ bé, yếu ớt ấy vẫn vươn lên. Câu truyện cổ tích Tấm Cám là minh chứng rõ rệt cho sự lạc quan, mạnh mẽ trước cái ác. Thông qua hình tượng cô Tấm để khắc họa rõ nét về sự thay đổi suy nghĩ, tâm lý và hành động để đòi công bằng và hạnh phúc cho bản thân.
Có lẽ bất hạnh của cuộc đời đã dành cho Tấm từ khi lọt lòng. Mẹ mất sớm, cha lấy vợ khác nhưng rồi cũng qua đời sớm. Tấm mất đi chỗ dựa về tinh thần, sống trên cuộc đời này với dì ghẻ và đứa em gái cùng cha khác mẹ tên là Cám. Hằng ngày, Tấm phải làm đủ mọi việc trong nhà quét nhà, nấu cơm, chăn trâu, xay thóc, gánh nước.
Không khi nào Tấm được ngơi tay, thế nhưng vẫn bị dì ghẻ đánh đập, chửi bới. Thế nhưng Tấm vẫn luôn âm thầm chịu đựng, bởi lẽ Tấm không có ai bên cạnh để bênh vực, che chở. Vốn tính hiền lương, cam chịu Tấm luôn cố gắng nhẫn nhịn cho dù bản thân bị thiệt thòi.
Có một hôm, dì ghẻ giao cho Tấm và Cám một cái giỏ để bắt tôm, bắt tép. Đồng thời còn đưa ra một điều kiện, nếu ai bắt được nhiều tôm cá vào giỏ sẽ được thưởng một cái yếm đào. Vốn đã quen thuộc với việc này, nên Tấm đã nhanh chóng bắt đầy giỏ. Cám thấy vậy, liền lừa Tấm xuống ao gội đầu còn mình ở trên trút hết tôm cá vào giỏ của mình.
Tấm bước lên, thấy giỏ mình không còn con tôm con cá nào.Biết là Cám đã lừa mình, thế nhưng cũng chỉ biết bưng mặt khóc. Ông Bụt hiện lên, an ủi Tấm rồi cho Tấm một con cá Bống đem về nuôi. Hằng ngày, Tấm lấy cơm của mình đem cho cá Bống ăn, rồi truyện trò cùng với nó. Mẹ con Cám thấy vậy, lập mưu giết chết cá Bống.
Một hôm dì ghẻ dặn Tấm đi chăn trâu ở đồng xa, Tấm vâng lời đi ngay. Ở nhà mẹ con Cám gọi cá Bống lên rồi giết nó ăn thịt. Khi Tấm về, gọi cá lên thì chỉ thấy cục máu. Tấm biết do mẹ con Cám làm nhưng chỉ biết ôm mặt khóc..Lúc này ông Bụt hiện lên, chỉ cho Tấm chỗ dấu xương cá bống trong bốn góc nhà.
Khi nhà vua mở hội, Tấm cũng muốn đi hội nhưng bị dì ghẻ trộn thóc và gạo lại với nhau. Tấm phải lựa sạch mới được đi hội. Tấm nhìn gạo và thóc trộn lẫn với nhau rồi bưng mặt khóc. Rõ ràng mẹ con Cám không muốn Tấm đi trẩy hội, nhưng Tấm lại không thể làm được gì. Ông Bụt hiện lên, sai bầy chim sẻ đến lựa sạch thóc và gạo. Rồi chỉ Tấm đào 4 cái hũ ở 4 góc nhà lên.
Tấm đã có áo đẹp, hài đẹp, ngựa đẹp để đi hội. Tấm chạy nhanh đến nơi, gặp được nhà vua rồi trở thành Hoàng Hậu.
Thế nhưng mẹ con Cám vẫn không buông tha cho Tấm. Nhân ngày giỗ cha, Tấm về nhà. Lúc này dì ghẻ lừa Tấm leo lên cây hái cau cúng cha. Tấm vâng lời leo lên thì bị dì ghẻ chặt cây té chết. Cám thay Tấm vào cung làm vợ vua, còn Tấm hóa thân thành chim vàng anh.
Vua mê mẩn chim vàng anh, ngày ngày chơi đùa cùng chim. Vàng anh lúc này là Tấm, thấy Cám đang giặt áo cho vua thì lên tiếng:
Tấm đã không còn im lặng, đã có lời cảnh cáo Cám. “ Đó là chồng của tao”! Tiếng hót của chim vàng anh đã khiến Cám không ngồi yên. Cám đã giết chim vàng anh, như giết Tấm thêm một lần nữa. Tấm hóa thân thành cây xoan, ngày ngày cho Vua nằm dưới bóng cây hóng mát. Cám không đành lòng, chặt cây xoan làm khung cửi.
“Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”. Phân tích nhân vật Tấm lúc này cho thấy, Tấm đã không dùng lời cảnh cáo nữa mà đã có hành động “khoét mắt ra”. Có thể thấy chuyển biến tâm lý, lời nói và hành động của Tấm đã có sự phát triển vượt bậc.
Cám lại một lần nữa đốt khung cửi, đem tro đổ ra ngoài cung. Tấm hóa thân thành quả thị, sống cùng bà lão ngoài cung. Hằng ngày Tấm phụ bà dọn dẹp, têm trầu cánh phượng. Một hôm nhà vua đi ngang qua, nghỉ chân quán nước, nhìn ra miếng trầu cánh phượng của Tấm. Tấm được đón về cung, đối mặt với Cám.
Lần này Tấm đã không còn nhẫn nhịn hay cam chịu như trước. Sự trả thù đã trở nên dứt khoát và có chút “tàn nhẫn”. Tuy trong Sách giáo khoa không đề cập rõ, chỉ nói Cám thấy Tấm da trắng bèn hỏi Tấm cách làm. Tấm chỉ Cám cách tắm nước sôi, Cám làm theo rồi chết.
Tuy nhiên, có một số thông tin đưa ra rằng Tấm cho người đào hố rồi dội nước sôi lên người Cám đến chết. Tiếp đó lấy xác cám làm mắm, gửi cho dì ghẻ ăn. Sau khi ăn phát hiện đó là con mình thì kinh hãi rồi chết.
Phân tích nhân vật Tấm xuyên suốt câu chuyện cho thấy, Tấm đã có sự chuyển biến rõ rệt. Ban đầu Tấm chỉ là cô gái yếu đuối, chỉ biết cam chịu, khóc lóc mỗi khi gặp khó khăn. Tiếng khóc thể hiện sự bất lực, cũng là lời cầu cứu của Tấm. Thế nhưng ông Bụt không thể xuất hiện mãi, cũng như Tấm không thể yếu đuối, cam chịu.
Sau những lần bị Cám hại chết, Tấm đầu thai hết lần này đến lần khác. Mỗi lần đầu thai, Tấm đều bên cạnh làm tròn nhiệm vụ người vợ với vua. Bên cạnh đó, Tấm cũng liên tục phản kháng, đe dọa lại Cám. Rõ ràng sau mỗi lần hồi sinh, Tấm đã mạnh mẽ hơn trước.
Điều này cho thấy cái ác không thể chiếm giữ mãi cuộc sống. Cái thiện sẽ lên ngôi, đè bẹp những điều xấu xa. Có ý kiến cho rằng, Tấm thật ra cũng ác không thua gì Cám. Thế nhưng, liệu với những kẻ đã năm lần bảy lượt hại chết mình, liệu sự trừng phạt trên có phải là đích đáng không.
Phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám để thấy hình ảnh cô Tấm hội tụ đủ hình ảnh người phụ nữ Việt. Chăm chỉ, hiền lành, cam chịu, yêu thương chồng hết mực. Thế nhưng ẩn sâu bên trong cũng là sức mạnh tiềm tàng, sẵn sàng chiến đấu để giành lại công bằng và hạnh phúc cho bản thân. Nội dung câu truyện cổ tích hướng tới giá trị nhân văn sâu sắc, “ác giả ác báo”. Phân tích nhân vật Tấm cũng lời thức tỉnh, Ông Bụt không thể xuất hiện mãi khi ta khó khăn. Phải đứng lên đấu tranh giành lại những thứ thuộc về mình. Ông Bụt chỉ xuất hiện tức thời, bản thân phải mạnh mẽ để tự bảo vệ mình.
Phân tích nhân vật Tấm trong truyện Tấm Cám – Mẫu 15Truyện cổ tích là thể loại văn học dân gian, gắn bó với tuổi thơ của hầu hết trẻ nhỏ Việt Nam. Nội dung của truyện cổ tích mang ý nghĩa giáo dục, hướng con người đến sống tử tế, chống lại cái ác. Truyện “Tấm Cám” là một tác phẩm nổi bật trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, được truyền kể qua nhiều thế hệ độc giả thiếu nhi. Nhân vật chính của truyện “Tấm Cám” là Tấm, một hình mẫu lý tưởng, tiêu biểu cho sự hiền lành, xinh đẹp của các cô gái.
Có thể nói, truyện cổ tích nói riêng và các tác phẩm văn học dân gian Việt Nam nói riêng là một phương thức thể hiện tiếng nói, khát vọng của nhân dân trong xã hội cũ. Đối với truyện Tấm Cám, tác phẩm mang tinh thần lạc quan và niềm tin của nhân dân lao động vào lòng tốt, vào một tương lai hạnh phúc. Tấm có số phận bất hạnh nhưng lại mang vẻ đẹp tâm hồn sáng ngời. Tấm phải trải qua nhiều gian nan nhưng cuối cùng có được cuộc sống hạnh phúc viên mãn. Qua nhân vật Tấm, nhân dân gửi gắm ước mơ về kết quả tốt đẹp dành cho người tốt, chăm chỉ, đồng thời thể hiện khát vọng cái thiện sẽ chiến thắng cái ác.
Tấm mồ côi từ nhỏ. Mẹ Tấm mất từ khi Tấm còn bé. Tấm có người em gái cùng cha khác mẹ tên là cám. Mấy năm sau khi mẹ Tấm mất thì cha tấm cũng qua đời, vì vậy Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám. Chúng ta dễ nhận ra số phận mồ côi là mô típ truyện cổ tích quen thuộc. Ở cùng dì ghẻ và em gái, Tấm chịu sự hành hạ ác độc của hai người và phải sống vất vả cực nhọc.
Tấm phải làm lụng ngày đêm, còn Cám thì thảnh thơi chơi đùa. Không những thế, Tấm còn bị Cám lừa mất giỏ cá mà Tấm đã chăm chỉ bắt ngoài đồng. Việc mất giỏ cá đồng nghĩa với việc Cám sẽ không nhận được phần thưởng của dì ghẻ, là một chiếc yếm đẹp. Về Tấm cũng tiếp tục bị ghẻ lạnh mà không nhận được tình yêu thương như của mẹ mà Tấm khao khát bấy lâu.
Nhẫn tâm hơn, khi trong giỏ cá chỉ còn con cá bống bầu bạn cùng Tấm, nhưng mẹ con cám cũng bắt và giết thịt. Lúc này ta thấy cuộc đời Tấm bị bao vây bởi dã tâm hãm hại của mẹ con Cám. Cá bống được Tấm xem là người bạn tâm sự, sẻ chia mỗi ngày nhưng cuối cùng người bạn cũng bị lấy mất. Có thể nói, nhân vật Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám là tiêu biểu cho số phận bị đày đọa, vì thấp cổ bé họng mà chịu nhiều thiệt thòi, bị tước đoạt ngay cả những quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc cơ bản nhất. Đó cũng là lý do tại sao, tiếng khóc của Tấm trong lúc bị áp bức đã khơi dậy lòng cảm thông, trái tim nhân từ, thương người của mọi người mà trước hết ở đây là ông Bụt.
Nhờ sự giúp đỡ của Bụt, Tấm cuối cùng trở thành hoàng hậu, sống hạnh phúc bên nhà vua. Mỗi khi Tấm khóc, buồn tủi Bụt sẽ xuất hiện và an ủi, giúp đỡ Tấm. Khi Tấm bị mất chiếc yếm đỏ, Bụt mang đến cho Tấm cá Bống làm người bầu bạn. Khi Tấm bị mẹ con cám bắt mất cá bống, Bụt lại cho Tấm hi vọng bằng gợi ý chôn xương cá bống ở chân giường, mà mai này từ đó Tâm có được một đôi giày xinh xắn. Khi tấm bị mẹ con Cám hãm hại không cho đi xem hội, Bụt đã cho đàn chim sẻ đến giúp nhặt đậu trong thúng thóc, nhờ đó Tấm có thể đi hội làng và ở đó Tấm gặp nhà vua. Khi Tấm đi hội và làm rơi giày, nhưng nhờ chiếc giày này mà Tấm gặp lại nhà vua và trở thành hoàng hậu, trở thành người có ngôi vị. Điều này cũng thể hiện cho khát vọng, cho ước mơ của nhân dân, những người bị áp ức, chèn ép trong xã hội cũ. Mà hạnh phúc ấy chỉ những người lương thiện, hiền lành mới có thể nhận được.
Tấm dù là một cô gái yếu đuối, nhưng luôn không ngừng đấu tranh cho hạnh phúc của chính mình. Qua nhân vật Tấm hay những cuộc đấu tranh vì kiên cường của Tấm, nhân dân lao động trong xã hội cũ thể hiện niềm tin và khát vọng đổi đời, về sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp trước cái ác, cái xấu xa. Để đến được đích hạnh phúc, Tấm đã phải nhiều lần hóa thân trở thành nào chim Vàng Anh, nào cây xoan đào, nào khung cửi, rồi đến quả thị. Và rồi từ quả thị, Tấm bước ra trở lại làm người. Như vậy có thể thấy, cuộc đấu tranh để giành lại quyền sống hạnh phúc của Tấm trải qua nhiều gian nan, cũng thể hiện ý chí quyết liệt, không khoan nhượng của Tấm. Cuộc đấu tranh này đã minh chứng rằng, cái ác vẫn luôn hiện diện, ở khắp mọi nơi và luôn cố gắng hành hạ, vùi dập cái thiện. Việc mẹ con Cám vẫn đeo bám để giết hại Tấm tới cùng, ngay cả khi Tấm đã trở thành hoàng hậu đã chứng minh cho điều này. Ta lại thấy, đến lúc này, cuộc đời Tấm không chỉ bị tước đoạt hạnh phúc mà còn bị tước đoạt cả tính mạng.
Trong lần hóa thân cuối cùng của mình, Tấm lại bước ra trở lại làm người. Điều này là sự thể hiện sự gửi gắm của dân gian về quan niệm của hạnh phúc. Đó là sự khẳng định rằng, hạnh phúc chốn trần gian mới là hạnh phúc đích thực của con người và đáng trân trọng biết bao. Mà qua phân tích nhân vật tấm ta càng hiểu sâu sắc thứ hạnh phúc của cuộc đời thực, khi được sống cạnh những người mình yêu thương, sống giữa tình cảm gia đình ấm áp. Quan trọng hơn, để đi đến đích đến hạnh phúc ấy, Tấm đã phải trải qua nhiều gian khổ, đã phải đấu tranh ngoan cường. Ta thấy sự chuyển biến rõ rệt về ý thức của Tấm trong suốt thiên truyện cổ tích, đó là ban đầu khi Tấm khóc, buồn tủi sẽ có Bụt hiện ra giúp đỡ; nhưng về sau Tấm đã tự mình đấu tranh, giành lấy hạnh phúc cho chính mình. Sau bao đấu tranh, Tấm trở lại làm người, trở thành hoàng hậu xinh đẹp. Nhưng nếu cái ác vẫn còn nhởn nhơ, vẫn chưa bị trừ diệt tận gốc, thì hạnh phúc của cái thiện, của Tấm sẽ chẳng bền lâu. Bởi vậy, cuối cùng Tấm đã tự tay trừng phạt mẹ con Cám, kẻ ác cuối cùng phải nhận cái kết thích đáng. Kết thúc này thể hiện niềm tin của nhân dân vào Tấm, vào công lý, và là sự khẳng định cái thiện luôn luôn chiến thắng cái ác.
Qua đây ta thấy truyện tấm Cám là tác phẩm điển hình về niềm lạc quan của người dân lao động vào những điều đúng đắn, vào lẽ phải. Thông qua số phận của nhân vật Tấm, tác giả dân gian đã phản ánh và lên án hiện thực xã hội cũ bất công. Đồng thời cũng qua nhân vật này và các yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm, nhân dân lao động gửi gắm ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, công bằng.
Có thể nói, văn học dân gian từ bao đời nay, trải qua không biết bao thăng trầm lịch sử, vẫn giữ một vị trí quan trọng trong kho tàng văn học Việt Nam cũng như các thế hệ độc giả. Với tác phẩm “Tấm Cám” nói riêng và phân tích các tác phẩm cổ tích, truyền thuyết nói chung, ta thấy được đời sống tinh thần của người dân lao động trong xã hội cũ, qua đó càng thêm trân trọng các tác phẩm văn học dân gian Việt Nam.
Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Bài Sóng Của Xuân Quỳnh Dàn Ý & 16 Bài Văn Phân Tích Sóng Khổ 1, 2
Phân tích khổ 1, 2 bài Sóng của Xuân Quỳnh
Dàn ý phân tích 2 khổ đầu bài Sóng đầy đủ
Dàn ý phân tích Sóng khổ 1, 2 ngắn gọn
Phân tích Sóng khổ 1, 2 hay nhất (2 Mẫu)
Phân tích khổ 1, 2 bài thơ Sóng đầy đủ (3 Mẫu)
Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ Sóng ngắn gọn (11 Mẫu)
Dàn ý phân tích 2 khổ đầu bài Sóng đầy đủ1. Mở bài
– Giới thiệu về Xuân Quỳnh và bài thơ Sóng ( Sóng là tiếng lòng của Xuân Quỳnh – Một người phụ nữ với tâm hồn nhạy cảm, mang bao cung bậc cảm xúc dạt dào, đắm thắm)
– Dẫn dắt vào vấn đề và trích dẫn đoạn thơ trên
2. Thân bài
* Khái quát chung về:
– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi biển thực tế ở Diêm Điền (Thái Bình, bài thơ được in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào.
– Nội dung bài thơ: Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ tha thiết, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên sự thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người.
– Cấu trúc bài thơ: Cấu trúc song hành giữa hai hình tượng sóng – em thể hiện tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình.
– Nội dung đoạn thơ trên: Sóng là đối tượng để cảm nhận với những cung bậc phong phú về tâm trạng và khát vọng trong tình yêu.
* Những nội dung cần làm rõ:
– Phát hiện về những đặc tính của sóng và trạng thái trong tình yêu
Trạng thái đối lập, đa dạng của sóng: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ cũng là tâm trạng thất thường, phức tạp của người con gái trong tình yêu.
Tình yêu chân chính không chấp nhận hiện tượng một chiều mà luôn khát khao tự khám phá nhận thức về mình. Cũng như thuộc tính vốn có của sóng không cho phép chấp nhận không gian chật hẹp của những dòng sông mà tìm đến không gian rộng mở, khoáng đạt của biển cả. Vì vậy trái tim của người con gái khi yêu không chấp nhận tình yêu tầm thường mà luôn kháo khát sự đồng cảm, hòa hợp, khoáng đãng, bao dung, rộng lớn…
– Sự vĩnh hằng của sóng và tình yêu
Sự trường tồn của sóng trước thời gian (con sóng ngày xưa – ngày sau – vẫn thế)
Khát vọng về tình yêu trong trái tim tuổi trẻ cũng bất diệt như sóng, đó là khát vọng lớn lao, vĩnh hằng của tuổi trẻ, của nhân loại (Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ)
– Nghệ thuật:
Những hình ảnh tượng trưng kết hợp với những tính từ mang ý nghĩa trái ngược đã diễn tả những cung bậc cảm xúc đa dạng của sóng và tình yêu: mạnh mẽ, cuồng nhiệt, sâu lắng.
Phép nhân hóa làm hình tượng sóng trở nên có hồn và sinh động hơn.
3. Kết bài
– Nêu suy nghĩ, cảm nhận về đoạn thơ trên (Đoạn thơ đã diễn tả một cách sâu sắc những cung bậc cảm xúc, nhưng trạng thái trong tình yêu. Con sóng là sự vĩnh hằng của biển khơi, còn tình yêu là khát khao muôn thuở của tuổi trẻ.)
– Mở rộng vấn đề bằng cảm xúc và sự liên tưởng của cá nhân
Dàn ý phân tích Sóng khổ 1, 2 ngắn gọnDàn ý 1
I. Mở bài
Những nét chính về bài thơ Sóng cũng như nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Tóm tắt những nét chính về giá trị nội dung và ý nghĩa của tác phẩm Sóng.
II. Thân bài
Những cảm thức của nhà thơ về hình tượng Sóng.
Tâm trạng người con gái trong tình yêu trong bài thơ.
Ước vọng lý giải trong tình yêu qua hình tượng Sóng.
III. Kết bài
Tóm tắt lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Nêu cảm nghĩ của bản thân về hình tượng sóng, về khát vọng của nhân vật trữ tình.
Dàn ý 2
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm: Bằng tâm hồn nhạy cảm, nữ tính Xuân Quỳnh đã mang đến hơi thở đầy mới mẻ cho thơ tình Việt Nam, đặc sắc nhất trong những sáng tác của bà có thể kể đến bài thơ “Sóng”.
2. Thân bài
– Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói đằm thắm, nữ tính của tâm hồn người phụ nữ đầy nhạy cảm, tinh tế.
– Mượn hình ảnh con sóng ngoài tự nhiên, Xuân Quỳnh đã gợi ra biểu tượng tuyệt đẹp của tình yêu, những trạng thái của sóng đã trở thành những ẩn dụ về cảm xúc, tâm trạng và những khát khao của người con gái trong tình yêu.
– Trong hai khổ thơ đầu, tác giả Xuân Quỳnh không chỉ thể hiện được những trạng thái đối lập của cảm xúc trong tình yêu mà còn là những khát khao vươn tới những điều vĩ đại, cao cả.
– Nữ sĩ sử dụng liên từ “và” để thể hiện quan hệ cộng hưởng, nối tiếp của những trạng thái đối lập trong tình yêu để tạo nên chỉnh thể thống nhất về cảm xúc.
– Khi yêu, người phụ nữ không chỉ có những giây phút nồng nhiệt, sôi nổi mà còn có những lúc bình lặng, lắng sâu.
– Trong tình yêu, trái tim của chủ thể trữ tình thường có xu hướng tìm đến thế giới rộng lớn, nơi tình yêu có thể bộc lộ trọn vẹn những nồng nhiệt cũng như lắng sâu mà không chịu bó hẹp trong phạm vi nhỏ hẹp, tù túng.
– “Hiểu nổi mình” là khát vọng muôn đời của con người, để hiểu được mình thì cần đặt bản thân trong phạm vi rộng lớn của cuộc đời
– Tác giả khẳng định sự tồn tại bất biến của tình yêu trong cuộc đời
– Tác giả đã khái quát về quy luật của tình cảm, tình yêu là thứ tình cảm thiêng liêng, cháy bỏng, là nỗi khát vọng muôn đời trong trái tim những con người trẻ tuổi, trẻ lòng.
3. Kết bài
Bằng hình tượng sóng đầy đặc sắc, Xuân Quỳnh đã mang đến hơi thở đầy mới mẻ cho thơ tình Việt Nam, tình cảm nhẹ nhàng đầy nữ tính trong sóng cũng như bông hoa dọc chiến hào có thể làm dịu đi cái khốc liệt của chiến tranh, làm đắm say độc giả bao thế hệ.
Phân tích Sóng khổ 1, 2 hay nhất Bài làm mẫu 1(Bài thơ tuổi nhỏ – Xuân Diệu)
Đó cũng là lý do tình yêu được đưa rất nhiều vào trong thơ ca và nghệ thuật, trở thành nguồn cảm hứng bất tận với nhiều thi nhân. Có rất nhiều những nhà thơ, nhà văn từng viết về tình yêu trong đó không thể không kể đến cây bút thơ tình xuất sắc của nền văn học Việt Nam – Xuân Quỳnh – nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thể hiện tình cảm người con gái qua bài thơ “Sóng”.
Khi nhắc đến tên tuổi của Xuân Quỳnh, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều biết tiếng thơ bà là tiếng nói nhân hậu, thủy chung, giàu trực cảm, tha thiết khát vọng hạnh phúc đời thường và Sóng là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương đặc trưng đó. Năm 1967, nhân một một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình), khi đứng trước biển khơi rộng lớn, những tâm tư tình cảm của bà được bộc bạch qua những vần thơ và đó là cơ sở để Sóng ra đời. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ là sự đan xen giữa hình ảnh Sóng và hình ảnh “em” – người con gái trong tình yêu. Mở đầu bài thơ tác giả mang đến cho bạn đọc những trạng thái khác nhau của con sóng:
“dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ” là những tính từ trái nghĩa thể hiện những thái cực đối lập của con sóng: có lúc hiền lành dịu dàng nhưng cũng có lúc vô cùng dữ dội. Đó cũng là những tâm trạng khác nhau của người con gái trong tình yêu, họ luôn dịu dàng, nhỏ nhẹ với tình yêu, với người yêu của mình nhưng cũng có lúc họ trở nên mạnh mẽ, cương trực trước tình yêu ấy. Hình ảnh dòng sông không hiểu chính mình nên tìm ra biển khơi rộng lớn tìm câu trả lời cũng chính là tâm tư của người con gái luôn trăn trở, suy tư nhiều điều và có ước muốn là khám phá được những điều lớn lao hơn trong tình yêu.
Bốn câu thơ tiếp theo nỗi khát vọng của người con gái:
Con sóng từ ngàn năm vẫn thế, vẫn tính chất, đặc điểm ấy không bao giờ thay đổi. Và người con gái cũng vậy khát vọng tình yêu luôn thường trực, rạo rực trong trái tim, bao nhiêu năm vẫn hướng về tình yêu, về người yêu.
Xuân Quỳnh đã tìm được một cách nói riêng để bộc lộ tình yêu, những dung động của lòng mình với một giọng thơ kể lể, tâm tình vừa êm ái, nhẹ nhàng vừa thiết tha. Âm hưởng, nhịp điệu bài thơ ngân nga do sự phối âm, phối vần tài tình như những con sóng cứ nối nhau không dứt. Bài thơ vì thế có cả âm vang của sóng, gió thiên nhiên và sóng của tâm hồn.
Sóng là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh và của thơ ca Việt Nam hiện đại viết về đề tài tình yêu. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Bài làm mẫu 2Trong nền thơ ca Việt Nam nếu người ta thường nhắc Xuân Diệu trong danh xưng là ông hoàng thơ tình thì Xuân Quỳnh chính là bà hoàng thơ tình. Ở Xuân Quỳnh luôn đem đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về tình yêu, nhà thơ thổn thức những lời thơ tình cảm, chân thành, hôn nhiên da diết của một trái tim khao khát yêu đương. Bài thơ Sóng không chỉ thành công trong việc truyền đạt ngôn ngữ mà còn ở việc nhà thơ tạo nên nhịp điệu riêng để thơ đi vào lòng người đọc một cách thú vị. Một người phụ nữ luôn thiết tha yêu và được yêu được nhà thơ mượn hình tượng sóng cùng nhịp điệu của sóng để nói về tiếng lòng mình. Vì thế mà toàn bộ bài thơ được bao trùm bởi hình ảnh ẩn dụ độc đáo “Sóng”.
Nhà thơ đã cảm nhận được chính lòng mình hiện tại trước đại dương mênh mông với những con sóng có lúc nổi lúc lại lặng yên kia. Đã rất nhiều lần chúng ta tìm về biển xanh để tâm tư hết những nỗi niềm, suy nghĩ của bản thân, để khi đứng trước sự mênh mông, bao la đó, đợt sóng lần lượt va vào nhau dội lại mới thấy được trong nhà thơ những rung động đến thế. Biển mang khúc ca hát lên câu chuyện về con người, những dòng suy nghĩ của nhà thơ qua trái tim đa sầu đa cảm của thi sĩ. Với những từ ngữ ngắn gọn ở khổ thơ đầu tiên nhưng lại khá lạ, tạo nên nét đặc biệt cho thơ Xuân Quỳnh. Nghệ thuật đối lập được sử dụng linh hoạt ở các cặp từ: “Dữ dội – dịu êm”, “Ồn ào – lặng lẽ” đây chính là những suy trạng thái đối lập nhau hay chính là nỗi niềm trong lòng con người. Đại dương, biển cả sẽ có lúc này lúc kia, khi hiền hòa ta sẽ thấy những đợt sóng nhẹ nhàng, dịu êm từng đợt nhưng khi mưa to, gió lớn, biến động biển cả thì con sóng ấy chợt trở nên hung dữ, va đập mạnh vào nhau. Nhìn thấy trạng thái của sóng như thế nhà thơ chợt nhận ra lòng mình lúc yêu cũng có lúc đối cực như vậy. Trái tim có lúc vui, rộn ràng nhưng lại có những ngày buồn bã, chán trường, bão tố trong lòng. Trong tình yêu không phải lúc nào cũng suôn sẻ, hạnh phúc mà sẽ có lúc hờn dỗi, trách móc, ghen tuông, muộn phiền,…và chính con sóng lúc êm đềm và dữ dội nói thay những đa dạng của cảm xúc người phụ nữ trong tình yêu. Bởi
Hình ảnh của dòng sông, bể chúng ta có thể liên tưởng là biển và đại dương. Dù dòng chảy có thế nào, trôi về đâu thì đích cuối cùng sẽ là sông, trăm sông lại tìm đến biển lớn, đặc biệt là con sóng kia không chịu những ràng buộc, giới hạn nhỏ bé nên nó tìm ra nơi rộng lớn, bao la hơn là đại dương, biển cả. Nối liền mạch thơ ở đây chính là trái tim của người con gái trong khi yêu luôn mong muốn có một điểm tựa vững chắc để tâm hồn có thể yên bình bất kể mọi chuyện có ra sao. Xuân Quỳnh cho thấy nét đẹp hiện đại trong lối viết thơ của mình, một quan điểm táo bạo, mới mẻ về người phụ nữ hiện đại luôn mãnh liệt, chủ động, sống hết mình, vượt qua bất kỳ mọi gian khổ để có được tình yêu.
Khổ thơ thứ hai không chỉ dừng lại trong khuôn khổ về trạng thái của sóng nữa, lúc này nhà thơ đã đặt cả lòng mình nương nhờ con sóng nói lên tất cả mọi điều:
“Ôi con sóng…trong ngực trẻ”
Trong vô vàn con sóng ngoài kia tình yêu chứa đựng là những khao khát được yêu thương, cảm giác trong tình yêu của đôi lứa. Thán từ “ôi” ở ngay câu đầu của đoạn thơ đã đủ để gợi lên cho ta thấy được xúc cảm dâng trào trội lên trong lòng nhà thơ. Rồi tiếp đến cặp từ “ngày xưa” – “ngày sau” tiếp tục đưa lối người đọc khám phá trạng thái đối lập để khẳng định thời gian muôn đời của con sóng từ quá khứ đến tương lai và dù có thế nào đi chăng nữa thì sóng vẫn cứ vận hành theo quy luật của biển cả. Trạng từ “vẫn thế” theo cùng để một làn nữa khẳng định chắc chắn rằng chân lý đó là không thể thay đổi. Ở những dòng thơ trên nhà thơ muốn diễn tả những đặc điểm tự nhiên của con sóng chỉ để đến đây nhằm phác họa đến con sóng tâm hồn chứ không chỉ là con sóng biển, sóng lòng nữa. Trái tim khao khát được yêu nơi tác giả lúc này đang trào dâng đến đỉnh điểm, nó luôn thường trực, ngự trị nơi con tim tuổi trẻ.
Câu chuyện tình yêu sẽ không chỉ là của riêng một cá nhân, ai trong số chúng ta cũng đều tồn tại một cảm giác yêu và được yêu, có lúc bình lặng như như những cơn sóng dịu êm, nhưng cũng có lúc mãnh liệt, rộn ràng như những con sóng gặp giông bão. Hai khổ thơ đầu bài Sóng cho thấy rõ hơn về phong cách thơ của Xuân Quỳnh và nét hiện đại của thi sĩ trước tình yêu nồng nàn, sôi nổi, chủ động.
Phân tích khổ 1, 2 bài thơ Sóng đầy đủ Bài làm mẫu 1Tình yêu là một trong những cung bậc cảm xúc khó diễn tả trong lòng con người. Những hỉ, nộ, ái, ố ở đời luôn được tình yêu diễn tả một cách rõ rệt. yêu không chỉ có vui vẻ sau đắm mà còn có cả những buồn đau. Bài Sóng của Xuân Quỳnh đã thể hiện rõ tiếng lòng của tình yêu. Nhất là trong hai khổ thơ đầu của bài thơ.
Bài thơ được đặt tên là Sóng khá đơn giản nhưng lại mang ý nghĩa vô cùng lớn lao. Hình tượng con sóng xuyên suốt bài thơ là ẩn dụ cho cái tôi trữ tình của tác giả. Sóng và em tuy hai mà lại một, lúc tách rời khi lại hòa nhập. Tất cả tạo nên được những rung động mạnh mẽ mãnh liệt trong tình yêu. Chúng quấn quýt nhau hòa quyện với nhau như tô vẽ thêm tâm hồn của người phụ nữ.
Mở đầu bài thơ ta thấy được sự tương đồng giữa sóng và em:
Đó là các cặp tính từ mang một sắc thái tương phản cho thấy sự đối lập nhau. Lúc mạnh mẽ ồn ào khi thì hiền hòa dịu êm. Mượn hình ảnh của sóng để nói lên được nỗi niềm cảm xúc. Lúc lên xuống bất thường của người phụ nữ khi yêu. Khi thì đắm say vui vẻ khi lại buồn bã giận hờn. Tình yêu là như vậy luôn chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Hai câu thơ tiếp theo:
Ở đây người phụ nữ đã không kìm nén được cảm xúc lòng mình. Vượt qua mọi rào cản để tiến tới cánh cửa tình yêu đích thực.
Sông và bể là hai phạm trù không gian xuất hiện trong câu. Bể ở đây chính là một không gian rộng lớn hơn, khát vọng to lớn hơn. Đó chính là chân trời mơ ước của hàng ngàn con sóng. Sông chính là phạm trù không gian hẹp, có giới hạn và khá chật chội. Chính bởi vậy mà sông không thể nào hiểu hết được những tâm tư nỗi lòng của sóng. Vì thế mà sóng tìm đến bể để được sẻ chia an ủi. Sóng ở đây chính là em, tình yêu của sóng không ai khác chính là tình yêu của em. Sóng muốn tìm đến bể lớn chính là khát khao của em muốn tìm đến một bến bờ tình yêu chân thành.
Từ “tận” trong câu thơ mang sắc thái thể hiện sự xa xôi. Cho thấy được hành trình kiếm tìm tình yêu hạnh phúc của người phụ nữ thật khó khăn và gian nan. Thế nhưng câu thơ thể hiện sự mạnh mẽ kiên trì không bỏ cuộc của người phụ nữ. Dám ước mơ, khát khao và dám hành động đi kiếm tìm hạnh phúc của đời mình. Con sóng trong thơ Xuân Quỳnh thật phi thường mạnh mẽ và đầy bản lĩnh. Đó là một trong những nét đẹp độc đáo của người phụ nữ hiện đại. Luôn chủ động, mạnh mẽ, dũng cảm và đầy cá tính.
Người phụ nữ lúc này đang trong chan chứa hạnh phúc với biết bao ước nguyện về tình yêu: “Ôi con sóng ngày xưa/Và ngày nay vẫn thế”. Cặp từ hô ứng “ngày xưa-ngày nay” xuất hiện trong câu thơ. Ngày xưa dùng để chỉ chiều sâu của quá khứ. Còn ngày sau dùng để nói về tương lai. Ngày xưa và ngày nay cũng như quá khứ, hiện tại và tương lai được nối lại với nhau. Xuân Quỳnh muốn nói đến về độ dài của thời gian. Con sóng vẫn vậy nhưng thời gian thì luôn thay đổi. “Vẫn” ở đây là vẫn ổn định không đổi thay, nó là đại từ thay thế cho cả ddaonj thơ phía trên. Dù thời gian có trôi qua có thay đổi thì những khao mong ước luôn ở đó và không thay đổi. Dù là con người trong quá khứ hay hiện tại vẫn luôn thủy chung luôn kiên định với khát vọng của mình.
Tình yêu mang đến cho con người một sức hút lạ kỳ: “Nỗi khát vọng tình yêu/Bồi hồi trong ngực trẻ”. “Bồi hồi” là từ láy dùng để nhấn mạnh cảm giác si mê trong tình yêu. Quãng thời gian đẹp nhất của mỗi con người có lẽ là yêu và được yêu. Tuổi trẻ luôn có mong ước và khát vọng riêng. Tố Hữu từng viết:
Xuân Quỳnh đã thốt lên những câu thơ hay mang nhiều cảm xúc về tình yêu. Khi vị nữ sĩ tài hoa này đứng trước không gian bao la, mênh mông và rộng lớn. Đó là những khám phá mới mẻ và tính tế của tác giả tạo nên nét riêng biệt trong thơ của bà. Tiếng thơ của tác giả Xuân Quỳnh cũng là tiếng lòng chung của nhiều người phụ nữ Việt Nam thủy chung son sắt:
Bài văn mẫu 2Tình yêu – một đề tài từng làm rung động trái tim biết bao người và ngân lên thành biết bao lời thơ nhân loại. Mỗi một nhà thơ tìm đến 1 cách biểu hiện khác nhau:một tình yêu mang yếu tố triết lí trong thơ Tago, một tình yêu nồng nàn đắm say trong thơ Puskin, một tình yêu rạo rực tràn đầy cảm xúc trong thơ Xuân Diệu và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ta bắt gặp 1 cảm xúc tình yêu đầy trăn trở, khát khao của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường: Và đây là 1 trong những đoạn thơ tiêu biểu:
Dữ dội và dịu êm
…
Bồi hồi trong ngực trẻ
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, vần thơ của bà vừa chân thành đằm thắm, vừa nồng nàn mãnh liệt và hơn hết luôn bật lên khát vọng da diết về hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ “Sóng” ra đời năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ về vùng biển Diêm Điền tỉnh Thái Bình và lúc này thì bản thân nhà thơ cũng vừa trải qua một sự đổ vỡ trong tình yêu. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” năm 1968. Tình yêu là điều bí ẩn nên ngàn đời vẫn cuốn hút con người, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh chính là những bông hoa dọc chiến hào làm dịu đi sự khốc liệt của chiến tranh.
Tác giả đã khéo léo sử dụng động từ “tìm” trong việc nhân hóa con sóng đã cho ta thấy được sự chủ động của con sóng, con sóng chủ động chối bỏ những phạm vi chật hẹp “sông” để vươn tới những phạm vi rộng lớn bao la “bể”. Như vậy trong bốn câu thơ đầu nhà thơ đã giúp ta nhìn lại hai đặc điểm tự nhiên, vốn có của những con sóng và chính tác giả cũng đã phải sử dụng tới hai câu thơ để khẳng định sự hiển nhiên, vốn có này:
Nữ sĩ đã khẳng định đặc điểm ngàn đời vốn có của sóng, từ quá khứ “ngày xưa” cho đến tương lai “ngày sau” con sóng vẫn luôn chứa đựng những trạng thái đối lập, vẫn luôn vận động theo quy luật trăm sông đều đổ về với biển. Trạng từ khẳng định “vẫn thế” một lần nữa biểu đạt một chân lí không bao giờ đổi thay.
Thơ ca, nghệ thuật là những sự sáng tạo mang đến cho người đọc những cảm xúc mới, đem đến cho tâm hồn con người những sự trải nghiệm phong phú. Ta tự hỏi vì sao trong sáu câu thơ đầu tác giả chỉ cho chúng ta hai đặc điểm tự nhiên, vốn có của con sóng? Để giải đáp cho điều này nữ sĩ viết tiếp hai câu thơ:
Đến đây ta đã cảm nhận được sự xuất hiện của một con sóng nữa đó là con sóng của tâm hồn, là con sóng của tình yêu, mà lại là tình yêu của tuổi trẻ đang bồi hồi, đang thổn thức trong trái tim, trong lồng ngực. Khát vọng tình yêu cháy bỏng mãnh liệt đang trào dâng trong lòng nữ sĩ. Như vậy đứng trước biển, trước những con sóng ào ạt ạt vỗ bờ dòng cảm xúc trong lòng nữ sĩ cũng trào dâng. Những con sóng biển ở sáu câu thơ đầu đã gọi những con sóng tình trong lòng nhà thơ. Sóng biển đã gọi sóng tình hay sóng biển chính là yếu tố khơi nguồn cảm xúc trong lòng thi sĩ.
Vì sao sóng biển lại gọi được sóng tình, lại có sức khơi gợi cảm xúc mãnh liệt như vậy? Có lẽ giữa sóng biển và sóng tình có sự tương đồng, nếu sóng biển biển chứa đựng những trạng thái đối lập thì tâm trạng người con gái đang yêu cũng có những lúc giận dỗi, hờn ghen, có những lúc yêu thương dịu dàng đằm thắm:
Con gái khi yêu luôn là như thế, luôn mâu thuẫn, đối lập trong lời nói và hành động. Nếu yêu một người con gái mà không biết nhìn thẳng vào mắt người đó thì chắc chắn một điều rằng anh chàng sẽ khó lòng hiểu và yêu thương cô gái trọn vẹn.Hành trình của sóng chính là hành trình của tình yêu. Nếu con sóng luôn luôn chủ động chối bỏ những chật chội hẹp hòi để vươn tới những điều rộng lớn thì người con gái đang yêu cũng luôn luôn có khát khao như thế .Họ dũng cảm từ bỏ những ích kỉ, nhỏ nhen để vươn tới tình yêu bao dung . Việt Nam là một nước có lịch sử ơn một nghìn năm phong kiến và chế độ phong kiến đã đè nặng tư tưởng phụ nữ Việt. Thời kì những năm 1967 ảnh hưởng của tư tưởng hệ phong kiến chắc chắn còn, mà thậm chí còn rơi rớt đến một số thế hệ trẻ hiện nay thế nhưng ở Xuân Quỳnh ta bắt gặp một con người hiện đại, thông minh và sắc sảo,luôn khát khao hướng tới một tình yêu vĩ đại.
Bài văn mẫu 3Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ luôn da diết trong tình yêu và khát vọng hạnh phúc đời thường. Đó cũng là tiếng lòng của biết bao người con gái khát trong tình yêu. Sóng được sáng tác vào năm 1967 trong chuyến đi vùng biển Diêm Điền, là bài thơ xuất sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
Ý nghĩa hình tượng “Sóng” khi cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài sóng được thể hiện qua cảm thức của nữ sĩ – qua tâm trạng của người con gái đang yêu. Khi cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài sóng, ta sẽ thấy rất rõ điều này.
Từ xa xưa, người con trai đã mượn “sóng” để nói lên lời vàng đá:
(Ca dao)
Trong phong trào Thơ mới, thi sĩ Xuân Diệu cũng đã từng mượn chuyện của sóng, biển và bờ để giãi bày tình yêu của mình:
(Biển – Xuân Diệu)
Trước Xuân Quỳnh, hình ảnh “sóng” thường tượng trưng cho tình yêu của người con trai mạnh mẽ, nồng nàn, quyết liệt… Trong bài thơ “Sóng”, hình tượng bao trùm, xuyên suốt bài thơ chính là “sóng”. Ở lớp nghĩa thực, sóng được miêu tả cụ thế, sinh động là những con sóng ngoài biển khơi bao la với nhiều trạng thái mâu thuẫn, trái ngược nhau. Ở lớp nghĩa biểu tượng, sóng là tình cảm trong tâm hồn người con gái với trái tim rạo rực khao khát yêu thương.
Hai hình tượng “sóng” và “em” sánh đôi với nhau như hai nhân vật trữ tình, tuy hai mà một, hỗ trợ, bổ sung cho nhau, cùng khắc họa những trạng thái xúc cảm, những khao khát mãnh liệt của tác giả. Đây chính là cái nhìn mới mẻ của Xuân Quỳnh: người con gái trực tiếp giãi bày khát vọng tình yêu của mình một cách tự nhiên, táo bạo mà cũng rất chân tình và thiết tha.
Khổ thơ đầu diễn tả trạng thái tâm lý đặc biệt của tâm hồn người con gái đang yêu:
Bằng hình thức đối lập và cách ngắt nhịp 2/1/2 đều đặn tả nhịp điệu con sóng khi trào lên lúc lắng xuống nhịp nhàng. Xuân Quỳnh đã phát hiện ra những đặc tính đối cực của sóng trên biển lúc phong ba cả. Hai từ “dữ dội”, “ồn ào” miêu tả cảnh “sóng” lúc phong ba bão tố: “sóng” dữ dằn không ngừng uốn lượn, phóng lên cao và liên tục gầm gào tạo ra những bọt tung trắng xóa.
Hai hình ảnh “dịu êm”, “lặng lẽ” là cảnh “sóng” lúc trời trong, gió thoảng: “sóng” nhấp nhô dịu dàng, nhẹ nhàng, êm ả vỗ vào bờ cát như thầm lặng một nỗi niềm. Khi cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài sóng, ta thấy khi ngồi trước biển khơi rộng lớn bao la, Xuân Quỳnh có những phát hiện thật tinh tế, sắc về sóng cũng là về vẻ đẹp của biển cả, của thiên nhiên mênh mông, dào dạt.
Cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài sóng, ta thấy sóng là ẩn dụ cho tâm hồn người con gái đang yêu nên khi nhà thơ phát hiện những đặc điểm đối cực của sóng thì đó cũng chính là phát hiện về bản tính thất thường đầy mâu thuẫn trong tâm hồn người con gái đang yêu. Khi yêu người con gái cũng có lúc khát khao cháy bỏng không kìm nén được cảm xúc của mình nên bộc lộ ra bên ngoài bằng sự cuồng nhiệt, sôi nổi, “dữ dội” đến “ồn ào”. Nhưng cũng có lúc cảm xúc ấy lắng sâu vào bên trong bằng sự “dịu êm”, “lặng lẽ”, nồng nàn của nhớ thương.
Và đôi khi tình cảm ấy ở người con gái cũng có sự đảo ngược. “Dịu êm”, “lặng lẽ” bình tĩnh đến phớt lờ ở bên ngoài và cháy bùng ngọn lửa yêu thương đang khao khát “dữ dội” đến “ồn ào” ở bên trong. Những cung bậc tình cảm đó của người con gái đã được Puskin – nhà thơ Nga thế kỉ XIX đề cập đến trong bài thơ “Sao mà anh ngốc thế”:
Bản chất người con gái khi yêu là vậy, luôn mâu thuẫn, đối lập với chính mình Hai câu thơ là lời tự thú táo bạo mà êm đềm của Xuân Quỳnh khi phát hiện trong trạng thái phong phú, phức tạp đầy biến động trong trái tim người phụ nữ đang yêu.
Khi cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài sóng, ta thấy những hình ảnh “sông”, “sóng”, “bể” miêu tả hành trình, quy luật của sóng đi từ sông ra biển cả. Biện pháp nhân hóa “sông không hiểu” và “sóng tìm ra” cho thấy sóng khát khao mạnh mẽ được vẫy vùng trong một không gian dào dạt, mênh mông. “Sông” tượng trưng cho sự bé nhỏ, chật chội, “bể” là hình ảnh của sự rộng lớn, không cùng. “Sông” dẫu dài, rộng đến đâu cũng chưa thể là nơi để “sóng” thỏa sức vẫy vùng. Với đặc tính “dữ dội”, “ồn ào” và “dịu êm”, “lặng lẽ” thì “sóng” chỉ có “tìm ra tận bể” bao la để hiểu rõ mình hơn.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài sóng, người đọc cũng nhận ra bằng những hình ảnh ấy, tác giả đã gắn vào sóng nhưng mạnh mẽ, chín chắn của người phụ nữ trong tình yêu. Như sóng, người con gái không dễ dàng chấp nhận tình yêu trong giới hạn của sự bình thường hay tầm thường mà khao khát vươn tới những cái rộng lớn bao la để tự khám phá và nhận thức.
Trong xã hội phong kiến, với những định kiến của Nho giáo như “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, cùng với đạo tam tòng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, mà phụ nữ phải cất lên lời than thân trách phận cho cuộc đời mình:
(Ca dao)
Nhưng Xuân Quỳnh đã đại diện cho tiếng nói của người phụ nữ hiện đại. Người con gái trong tình yêu không còn cam chịu, nhẫn nhục nữa mà đã minh bạch, quyết liệt rời xa tình yêu vị kỷ, bé nhỏ để đến với tình yêu cao thượng, vị tha, bao dung, Pascal năm xưa và Xuân Quỳnh ngày nay đều cảm nhận: “Tình yêu nâng cao con người thoát khỏi sự tầm thường”.
Khổ thứ hai, nhà thơ đã phát hiện ra quy luật của sóng cũng là quy luật của tình yêu con người
Ngồi trước biển khơi rộng lớn bao la, nữ sĩ phát hiện mối tình bất tử giữa sóng và bờ. Thán từ “ôi” cùng những từ chỉ thời gian như “ngày xưa”, “ngày sau”, “vẫn thế” đã thể hiện niềm sung sướng của nữ sĩ khi phát hiện quy luật của “sóng” là quy luật của sự vĩnh hằng: Con song ngày xưa, ngày nay, sau vẫn thế – nghĩa là sóng ngàn năm vẫn vỗ mãi vào bờ thể hiện niềm khát khao bờ trong mối tình thủy chung, bất diệt.
Sóng muôn đời không thay đổi thì tình yêu sẽ mãi mãi song hành cùng với con người và khát vọng tình yêu cũng sẽ là khát vọng muôn đời mà thể hiện rõ nhất là tuổi trẻ. Những từ “khát vọng”, “bồi hồi” và hình ảnh “trong ngực trẻ” đã diễn tả thật mãnh liệt một trái tim với những nhịp đập dồn dập vì khát khao, một tâm hồn đang rạo rực niềm đam mê tình yêu của tuổi trẻ. Khi cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài sóng của Xuân Quỳnh, ta thấy thật ra, con người có thể yêu ở bất kỳ độ tuổi nào, nhưng tuổi trẻ là độ tuổi khát khao tình yêu cháy bỏng nhất. Với Xuân Quỳnh, còn tuổi trẻ là còn khát vọng của tình yêu bồi hồi…
Trong ca dao, trai gái ngày xưa cũng đã từng khao khát như thế:
(Ca dao)
Trong văn học trung đại, nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du cũng vì tiếng sét ái tình mà đã vượt lên lễ giáo phong kiến, dù đêm hôm nhưng vẫn “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đến tình tự cùng Kim Trọng. Còn ông hoàng tình yêu Xuân Diệu – đại diện cho tiếng nói của Phong trào Thơ mới – cũng đã từng da diết cháy bỏng trong tình yêu: “Làm sao sống được mà không yêu; Không nhớ, không thương một kẻ nào”. Bốn câu thơ cho thấy nữ sĩ Xuân Quỳnh đã diễn tả đúng tâm trạng của những người khi bắt gặp vầng sáng chói lóa của tình yêu.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Sóng của Xuân Quỳnh, ta thấy hai hình tượng “sóng” và “em” vừa tương đồng vừa bổ sung soi chiếu vào nhau để làm rõ tình cảm, khát vọng của nhân vật trữ tình. Sóng hiển hiện không chỉ bởi hình ảnh mà còn hiển hiện qua âm điệu. Âm điệu của bài thơ “Sóng” là âm điệu của những con sóng trên biển cả, là nhịp của những con sóng lòng trong trái tim thi sĩ. Âm điệu đó được tạo nên bởi hai yếu tố chính: thể thơ năm chữ và cách tổ chức ngôn từ, hình ảnh thể hiện tâm trạng bùng cháy ngọn lửa mãnh liệt của người con gái trong tình yêu.Giọng điệu ấy cũng chính là giọng điệu tâm hồn của thi nhân.
Qua hình tượng sóng và trên cơ sở khám phá sự tương đồng giữa “sóng” và “em”, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, một nhà thơ nữ đã lấy sóng để bộc lộ thẳng thắn, mạnh mẽ tình yêu của người con gái và chủ động bày tỏ những rung động, rạo rực trong tâm hồn, trực tiếp nói lên niềm thương nỗi nhớ. Tâm hồn đó luôn khát vọng được sống trọn vẹn cho tình yêu. Đây cũng chính là vẻ đẹp thủy chung, thuần hậu trong tình yêu của người phụ nữ Việt Na
Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ Sóng ngắn gọn Bài văn mẫu 1Trong nền thơ ca Việt Nam nếu người ta thường nhắc Xuân Diệu trong danh xưng là ông hoàng thơ tình thì Xuân Quỳnh chính là bà hoàng thơ tình. Ở Xuân Quỳnh luôn đem đến cho độc giả những cái nhìn sâu sắc về tình yêu, nhà thơ thổn thức những lời thơ chân thành, có chút hồn nhiên, da diết của một trái tim khao khát yêu đương. Bài thơ Sóng không chỉ thành công trong cách truyền đạt ngôn ngữ mà còn ở việc nhà thơ tạo nên nhịp điệu riêng để thơ đi vào lòng người đọc một cách thú vị. Một người phụ nữ luôn da diết yêu và được yêu được nhà thơ mượn hình tượng sóng cùng nhịp điệu của sóng để nói về tiếng lòng mình. Vì thế mà bao trùm toàn bộ bài thơ là hình ảnh ẩn dụ độc đáo “Sóng”:
“Dữ dội và dịu êm
…
Sóng tìm ra tận bể”
Nhà thơ đã nhìn thấy chính lòng mình hiện tại trước đại dương bao la với những con sóng có lúc nổi lúc lại lặng yên kia. Đã bao lần chúng ta tìm về biển xanh để nói hết nỗi niềm, suy nghĩ trong bản thân, để khi đứng trước sự mênh mông, lớn lao kia, đợt sóng lần lượt va vào nhau dội lại mới thấy được trong nhà thơ những rung cảm đến thế. Biển mang khúc ca hát lên câu chuyện về con người, cuộc đời trong suy nghĩ của nhà thơ qua trái tim đa sầu đa cảm của thi sĩ. Với từ ngữ ngắn gọn ở khổ thơ đầu tiên nhưng lại khá lạ, tạo nên nét đặc biệt cho thơ Xuân Quỳnh. Nghệ thuật đối lập sử dụng linh hoạt ở các cặp từ: “Dữ dội – dịu êm”, “Ồn ào – lặng lẽ” đấy chính là những trạng thái trái ngược của con sóng biển hay chính là con sóng lòng. Đại dương, biển cả sẽ có lúc này lúc kia, khi hiền hòa thì ta sẽ thấy những đợt sóng nhẹ nhàng, thướt tha từng đợt nhưng một khi bão đến, biến động biển cả thì con sóng ấy bỗng nổi cơn hùng vĩ, va đập vào nhau. Nhìn thấy trạng thái của sóng như thế nhà thơ thấy lòng mình trước tình yêu cũng có những lúc đối cực như vậy. Trái tim có lúc reo vui, bình yên nhưng không tránh khỏi những ngày buồn bã, rạo rực, đấu tranh bão tố. Trong tình yêu không phải lúc nào cũng êm ả niềm vui, hạnh phúc, tiếng cười mà sẽ có lúc dỗi hờn, giận dữ, trách móc, buồn phiền… và chính con sóng lúc êm đềm và dữ dội nói thay những cảm xúc đa dạng của người phụ nữ trong tình yêu. Bởi “Vì tình yêu muôn thuở/ Có bao giờ đứng yên”.
Hình ảnh của dòng sông, bể chúng ta có thể mường tượng là biển và đaị dương. Dù chảy thể nào, trôi về đâu thì đích cuối cùng suối sẽ trở về sông, trăm sông lại timg đến biển lớn, đặc biệt con sóng kia không chịu những ràng buột, giới hạn nhỏ bé nên nó tìm về nơi thuộc về đó là biển lớn, đại dương. Nối liền mạch thơ ở đây chính là trái tim của người con gái khi yêu luôn mong muốn có được một điểm tựa vững chắc, hứa hẹn sẽ làm , đích đến đúng nghĩa chứ không phải những lời hoa mỹ tầm thường rồi để đó. Xuân Quỳnh cho thấy nét hiện đại trong suy nghĩ và viết thơ của mình, một quan điểm táo bạo, hướng ngoại mới mẻ về người phụ nữ hiện đại luôn mãnh liệt chủ động, sống hết mình, vượt qua tất cả để có được tình yêu cho mình.
Khổ thơ thứ hai không dừng lại trong khuôn khổ về trạng thái của sóng nữa, lúc này nhà thơ đặt cả lòng mình nương nhờ con sóng nói lên tất cả mọi điều:
“Ôi con sóng… trong ngực trẻ”
Trong con sóng ngoài kia tình yêu chứa đựng là những khát khao yêu và được yêu, cảm giác trong tình yêu của lứa đôi. Thán từ “ôi” ở ngay câu đầu của đoạn thơ đủ cho ta thấy được xúc cảm dâng trào nổi trội trong lòng nhà thơ. Rồi tiếp đến cặp từ “ngày xưa” – “ngày sau” tiếp tục đưa lối người đọc khám phá trạng thái đối lập để khẳng định thời gian muôn đời của con sóng từ quá khứ đến tương lai và dù thế nào thì sóng vẫn vận hành theo quy luật của chính nó. Trạng từ “vẫn thế” theo cùng để một lần nữa khẳng định chắc nịch hơn chân lí đó mãi không đổi thay. Ở những dòng thơ trên nhà thơ muốn diễn tả những đặc điểm tự nhiên của con sóng chỉ để đến đây nhằm nói đến con sóng tâm hồn chứ không chỉ là sóng biển, sóng lòng nữa. Trái tim khát khao tình yêu nơi tác giả lúc này trào dâng đến đỉnh điểm, nó luôn thường trực, chất chứa trong trái tim tuổi trẻ.
Câu chuyện tình yêu sẽ không là của riêng một ai, trong trái tim chúng ta đều tồn tại một tình yêu có lúc bình lặng rồi sẽ có lúc trào dâng mạnh mẽ, luôn muốn yêu và được yêu. Hai khổ thơ đầu bài Sóng cho thấy rõ hơn về phong cách thơ của Xuân Quỳnh và nét hiện đại của thi sĩ trước tình yêu nồng nàn, sôi nổi, chủ động.
Bài văn mẫu 2Xuân Quỳnh vẫn qua từng câu thơ, từng điệu hồn mà khát mong được đồng cảm, đồng điệu với tâm hồn của người đọc muôn thế hệ, và Sóng dường như là tiếng thơ tha thiết nhất chị gửi lại trước khi rời xa, là tiếng thơ mang đậm dấu ấn tâm hồn chị, và hai khổ thơ đầu bài thơ Sóng chính là những khát khao cháy bỏng, chảy tràn tự nhiên từ hồn thơ của nữ sĩ về khát vọng được khám phá, được thấu hiểu bản thể, và đồng thời bày tỏ chân lí về quy luật bất tử của tình yêu của tâm hồn trẻ tuổi.
Đoạn thơ mở đầu bằng những thái cực, bằng những sắc thái đối lập, giữa dữ dội và dịu êm, giữa ồn ào và lặng lẽ. Đó là hai vẻ đẹp đối chọi mà hòa điệu của con sóng biển khơi, hay chăng nó cũng đồng thời là vẻ đẹp trong tâm hồn người phụ nữ, vừa mang nét dịu dàng đằm thắm, vừa mang những khát khao cháy bỏng mãnh liệt. Nhưng có một điều, nếu thực sự chú ý ta mới nhận ra sự tinh tế trong cách đặt từ của Xuân Quỳnh, đó là dù ở hai thế cực đối lập nhau, nhưng chốt hạ ở cuối mỗi câu thơ đều là những gì rất đỗi dịu êm, lắng sâu. Phải chăng đó cũng là mong muốn của sóng với bến bờ của mình, luôn luôn hi vọng khao khát được nương mình vào điểm tựa bình yên, Và đó, có lẽ cũng là lúc ta nhận ra nét đẹp nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh, rằng chị hay bao nhiêu người phụ nữ khác, dẫu vinh quang tột cùng với ánh đèn, sân khấu hay con chữ, thì niềm khao khát mãnh liệt nhất, bình dị nhất vẫn là khao khát tìm được bến đỗ bình yên, bến đỗ hạnh phúc ấm êm. Đó cũng là lâu đài mà bất kể người phụ nữ nào đều vun vén, đắp xây.
Nhưng người con gái ấy, không phải chỉ vì khát khao hạnh phúc ấm êm mãnh liệt, mà chấp nhận đánh mất mình, trái lại, nếu sông không hiểu nổi mình, sóng chủ động tìm ra tận bể. Không phải đợi, chờ một ai đến để dẫn dắt, để quyết định, Sóng chủ động hòa mình để kiếm tìm, chinh phục, và đặc biệt là để thấu hiểu, để khám phá chính bản thể thẳm sâu của mình. Từ đó, giúp người đọc nhận ra, hóa ra tình yêu không chỉ cần cảm giác bình yên của một điểm tựa, mà còn cần sự thấu hiểu rất nhiều và rất sâu từ cả hai phía, có như vậy mới đạt đến sự vĩnh cửu của một tình yêu chân chính.
Mượn sự vĩnh hằng, bất tử và bất biến của con sóng biển khơi để nói về nỗi khát khao tình yêu cháy bỏng trong lồng ngực trẻ, còn sự ví von nào giàu xúc cảm và giàu sức gợi đến thế. Trái tim ngực trẻ vẫn mãi một tình yêu, vẫn mãi một niềm rong ruổi bất tận cho hạnh phúc của đời mình, bởi như Xuân Diệu cũng từng nói, tuổi trẻ là mùa xuân của đời người, và tình yêu làm mùa xuân ấy trở nên thắm sắc đượm hương hơn. Có thể thấy trong ý thơ của Xuân Quỳnh, cũng có sự gặp gỡ, đồng điệu với những gì Xuân Diệu từng gợi nhắc, nhưng chính hình tượng sóng đã giúp cách diễn đạt trở nên mới mẻ, giàu chất thơ hơn.
Hai khổ thơ đầu giống như khúc nhạc dạo đầu, đã mở ra toàn bộ mạch cảm xúc của bài thơ Sóng, đồng thời gợi cho người đọc những cảm nhận mới lạ bởi cách diễn đạt trẻ trung, mà vô cùng sâu sắc, đậm chất thơ Xuân Quỳnh.
Bài văn mẫu 3Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ trẻ xuất sắc trưởng thành từ kháng chiến chống Mỹ và là một trong số ít những nhà thơ nữ viết rất nhiều và rất thành công về đề tài tình yêu. Một trong những thành công xuất sắc về đề tài này của nữ sĩ là bài thơ “Sóng”, hai khổ thơ đầu bài thơ nữ thi sĩ viết:
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, vần thơ của bà vừa chân thành đằm thắm, vừa nồng nàn mãnh liệt và hơn hết luôn bật lên khát vọng da diết về hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ “Sóng” ra đời năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ về vùng biển Diêm Điền tỉnh Thái Bình và lúc này thì bản thân nhà thơ cũng vừa trải qua một sự đổ vỡ trong tình yêu. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” năm 1968. Tình yêu là điều bí ẩn nên ngàn đời vẫn cuốn hút con người, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh chính là những bông hoa dọc chiến hào làm dịu đi sự khốc liệt của chiến tranh.
Trong hai câu thơ mở đầu tác giả đã sử dụng tới hai cặp tính từ trái nghĩa để miêu tả đặc điểm của sóng biển: “dữ dội – dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ”. Thông thường đứng giữa những cặp tính từ trái nghĩa là quan hệ từ biểu đạt sự tương phản “tuy – nhưng”, thế nhưng ở đây nhà thơ nữ Xuân Quỳnh lại sử dụng quan hệ từ “và” vốn biểu đạt quan hệ cộng hưởng, cộng thêm, nối tiếp. Như vậy những đặc điểm tưởng như đối lập lại thống nhất với nhau và luôn tồn tại trong một chỉnh thể là sóng. Trong cái dữ dội có cái dịu êm, trong sự ồn ào lại chứa đựng sự lặng lẽ.Những trạng thái đối lập của sóng cũng chính là những trạng thái đối lập trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Trong tình yêu, tâm hồn người phụ nữ không hề bình lặng mà đầy biến động: có khi sôi nổi cuồng nhiệt, cũng có khi e lệ, kín đáo, có lúc đằm thắm, lúc hờn ghen.
Tác giả tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa trong hai câu thơ tiếp theo, con sóng được nhân hóa qua động từ “tìm” trong hành trình từ sông ra tới biển:
Tác giả đã khéo léo sử dụng động từ “tìm” trong việc nhân hóa con sóng đã cho ta thấy được sự chủ động của con sóng, con sóng chủ động chối bỏ những phạm vi chật hẹp “sông” để vươn tới những phạm vi rộng lớn bao la “bể”. Như vậy trong bốn câu thơ đầu nhà thơ đã giúp ta nhìn lại hai đặc điểm tự nhiên, vốn có của những con sóng và chính tác giả cũng đã phải sử dụng tới hai câu thơ để khẳng định sự hiển nhiên, vốn có này:
Nữ sĩ đã khẳng định đặc điểm ngàn đời vốn có của sóng, từ quá khứ “ngày xưa” cho đến tương lai “ngày sau” con sóng vẫn luôn chứa đựng những trạng thái đối lập, vẫn luôn vận động theo quy luật trăm sông đều đổ về với biển. Trạng từ khẳng định “vẫn thế” một lần nữa biểu đạt một chân lí không bao giờ đổi thay.
Thơ ca, nghệ thuật là những sự sáng tạo mang đến cho người đọc những cảm xúc mới, đem đến cho tâm hồn con người những sự trải nghiệm phong phú. Ta tự hỏi vì sao trong sáu câu thơ đầu tác giả chỉ cho chúng ta hai đặc điểm tự nhiên, vốn có của con sóng? Để giải đáp cho điều này nữ sĩ viết tiếp hai câu thơ:
Đến đây ta đã cảm nhận được sự xuất hiện của một con sóng nữa đó là con sóng của tâm hồn, là con sóng của tình yêu, mà lại là tình yêu của tuổi trẻ đang bồi hồi, đang thổn thức trong trái tim, trong lồng ngực. Khát vọng tình yêu cháy bỏng mãnh liệt đang trào dâng trong lòng nữ sĩ. Như vậy đứng trước biển, trước những con sóng ào ạt ạt vỗ bờ dòng cảm xúc trong lòng nữ sĩ cũng trào dâng. Những con sóng biển ở sáu câu thơ đầu đã gọi những con sóng tình trong lòng nhà thơ. Sóng biển đã gọi sóng tình hay sóng biển chính là yếu tố khơi nguồn cảm xúc trong lòng thi sĩ.
Vì sao sóng biển lại gọi được sóng tình, lại có sức khơi gợi cảm xúc mãnh liệt như vậy? Có lẽ giữa sóng biển và sóng tình có sự tương đồng, nếu sóng biển biển chứa đựng những trạng thái đối lập thì tâm trạng người con gái đang yêu cũng có những lúc giận dỗi, hờn ghen, có những lúc yêu thương dịu dàng đằm thắm:
Con gái khi yêu luôn là như thế, luôn mâu thuẫn, đối lập trong lời nói và hành động. Nếu yêu một người con gái mà không biết nhìn thẳng vào mắt người đó thì chắc chắn một điều rằng anh chàng sẽ khó lòng hiểu và yêu thương cô gái trọn vẹn.Hành trình của sóng chính là hành trình của tình yêu. Nếu con sóng luôn luôn chủ động chối bỏ những chật chội hẹp hòi để vươn tới những điều rộng lớn thì người con gái đang yêu cũng luôn luôn có khát khao như thế. Họ dũng cảm từ bỏ những ích kỉ, nhỏ nhen để vươn tới tình yêu bao dung. Việt Nam là một nước có lịch sử ơn một nghìn năm phong kiến và chế độ phong kiến đã đè nặng tư tưởng phụ nữ Việt. Thời kì những năm 1967 ảnh hưởng của tư tưởng hệ phong kiến chắc chắn còn, mà thậm chí còn rơi rớt đến một số thế hệ trẻ hiện nay thế nhưng ở Xuân Quỳnh ta bắt gặp một con người hiện đại, thông minh và sắc sảo,luôn khát khao hướng tới một tình yêu vĩ đại.
Bài văn mẫu 4Đã có biết bao nhiêu thi nhân lựa chọn hình ảnh sóng làm hình tượng chính trong những tác phẩm của mình, bởi một lẽ đây là hình tượng động, cũng giống như: “Tình yêu muôn thuở/Có bao giờ đứng yên.” Nếu như ông hoàng thơ tình Việt Nam – Xuân Diệu lựa chọn hình ảnh sóng để biểu hiện cho tình yêu của anh dành cho em, một tình yêu nồng nàn, mãnh liệt, muốn ôm trọn em vào lòng, muốn hôn lấy em.. thì Xuân Quỳnh, lại lựa chọn hình tượng này, viết về sóng để gửi gắm tình yêu của trái tim người phụ nữ.
Với những khao khát trong tình yêu, với những cung bậc cảm xúc nhiều khi biến động, hai hình tượng “sóng và em” khi song hành, khi tách biệt, khi hòa nhập để em soi mình vào trong sóng nhìn ra những tình cảm của riêng mình. Xuân Quỳnh đã bắt đầu thi phẩm này một cách vô cùng tinh tế:
Tôi đã nhìn thấy những con sóng ngoài đại dương rồi! Tôi cũng đã từng tìm về biển với những mong mỏi được trải lòng và tôi cũng hiểu tại sao, khi đứng trước đại dương bao la, trước muôn trùng con sóng vỗ bạc đầu, người nghệ sĩ lại có trong mình nhiều rung cảm đến vậy, để cho tới tận bây giờ, biển vẫn hát khúc ca của đại dương, và chúng tôi, độc giả của những năm tháng này, vẫn ru hoài giấc mơ qua những thi phẩm khởi nguồn từ con sóng.
Trong khổ thơ đầu tiên, nghệ thuật đối đã được sử dụng một cách rất tinh tế. Các cặp từ đối lập: “Dự dội – dịu êm”, “Ồn ào – lặng lẽ” là biểu hiện rõ ràng nhất cho những trạng thái đối cực của con sóng ngoài đại dương. Khi đại dương hiền hòa, những con sóng thật nhẹ nhàng, êm dịu, khi có bão đi ngang biển động sóng mạnh mang theo bao bão tố, phong ba. Những trạng thái đối cực của sóng cũng chính là những trạng thái đối cực của tình yêu, có những khi rất bình yên, nhưng cũng có những ngày bão tố. Ta cũng có thể hiểu 2 câu thơ này theo một trường nghĩa khác, với trạng thái đối cực của trái tim người phụ nữ khi yêu, một người phụ nữ khao khát tình yêu. Khi vui, khi buồn, khi giận hờn, khi trách móc, khi hạnh phúc, khi tổn thương những cung bậc cảm xúc của tình yêu quả thật rất diệu kỳ bởi một lẽ:
Chuyển đến hai câu thơ tiếp theo, ta nhìn thấy sự mới lạ trong tứ thơ của Xuân Quỳnh:
Những hình ảnh xuất hiện liên tiếp, hình ảnh của dòng sông, của con sóng và của “bể”, ở đây có thể hiểu là biển, là đại dương. Trăm suối đổ về một sông, trăm sông đổ về biển lớn, sóng không chấp nhận giới hạn nhỏ bé tầm thường, sóng chuyển mình ra biển lớn, tìm về đại dương, tìm đến nơi thuộc về. Ở hai câu thơ này, mạch sóng như bứt phá ra khỏi một không gian chật hẹp để tìm đến những điều lớn lao.
Cũng giống như trái tim tình yêu của những người phụ nữ, vượt qua những giới hạn nhỏ bé tầm thường, để tìm đến với tình yêu đích thực của cuộc đời mình. Có thể thấy rằng, đây cũng chính là một trong những nét hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh, cũng là góc nhìn, một quan niệm mới mẻ về người phụ nữ hiện đại, dám đấu tranh vì tình yêu, vượt qua những thứ lễ giáo phong kiến để đến với hạnh phúc đích thực của cuộc đời mình. Ở khổ thơ đầu của mình, Xuân Quỳnh đã rất tinh tế khi gửi gắm tới bạn đọc một thông điệp mới mẻ trong thời đại lúc bấy giờ: “Người phụ nữ chủ động tìm đến với tình yêu để được sống với chính mình”.
Xuân Quỳnh viết “Sóng”, chị đang hát những khúc hát về tình yêu để đến bây giờ, biết bao nhiêu thập kỷ trôi qua rồi, những độc giả vẫn dành biết bao nhiêu tình yêu của mình cho một mảnh “tình thơ” đã cũ. Và tình yêu trong “Sóng” – mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của lứa đôi:
Thán từ “ôi” được sử dụng, bộc lộ mạnh mẽ những trạng thái cảm xúc đang trào lên trong lòng. Cặp từ đối “ngày xưa” – “ngày sau” khiến cho người đọc có biết bao nhiêu liên tưởng khi đọc đoạn thơ này. Trải qua hàng ngàn hàng vạn năm, từ khi đại dương xuất hiện, những con sóng cũng ra đời.
Và dẫu cho thời gian mãi là một dòng tuyến tính không bao giờ quay trở lại thì sóng vẫn cứ mãi hát khúc ca của đại dương bất diệt, vẫn cứ là mình, vẫn “dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ”.Cũng giống như tình yêu,những khát khao về tình yêu luôn luôn là những hoài bão đang đập nhanh trong trái tim của những người trẻ. Câu chuyện tình yêu là câu chuyện của tôi, của bạn, của chúng ta, của quá khứ, hiện tại và muôn đời sau sẽ còn nhắc mãi, nhắc hoài. Còn đại dương là còn sóng, còn những trái tim đang đập trong lồng ngực là còn tình yêu.
Bài văn mẫu 5Tình yêu luôn là những cung bậc cảm xúc rất khó định hình, khó diễn tả. Tình yêu cho người ta cảm nhận rõ nhất những hỉ, nộ, ái, ố ở đời. Yêu là vui vẻ, đắm say, yêu là cả buồn đau, tủi hờn. Tiếng lòng tình yêu đã được nữ thi sĩ Xuân Quỳnh khắc họa rõ nét qua bài thơ Sóng, đặc biệt là trong hai khổ thơ đầu của bài thơ.
Đặt tên cho tác phẩm bài thơ là Sóng. Tuy đơn giản về mặt chữ nghĩa nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn. Xuyên suốt bài thơ là hình tượng con sóng, đây là hình ảnh ẩn dụ cho cái tôi trữ tình và thi nhân của Xuân Quỳnh. Sóng và em tuy hai mà một, khi tách rời khi lại hòa nhập cộng hưởng trầm bổng tạo ra những rung động mãnh liệt trong tình yêu. Sóng và em luôn quấn quýt đan hòa tô vẽ nên tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
Mở đầu bài thơ tác giả soi mình vào sóng để thấy được những nét tương đồng:
Xuân quỳnh đã rất tinh tế khi quan sát các tính chất của thực thể sóng: dữ dội; dịu êm; ồn ào; lặng lẽ. Hai cặp tính từ mang sắc thái tương phản được đặt liền kề cho thấy trong bản thân thực thể luôn tồn tại nhiều đối cực khác nhau; khi hiền hòa dịu êm, khi lại mạnh mẽ, ồn ào. Mượn hình ảnh sóng nhà thơ muốn nói lên nỗi niềm, tính khí thất thường của người phụ nữ trong tình yêu: khi nhiệt huyết đắm say khi lại giận hờn, thầm lặng. Tình yêu là thế, luôn chứa đựng biết bao cung bậc những xúc cảm thật khó lí giải. Tình yêu khiến cho bản tính con người vì thế cũng có sự giao hòa đan xen khác lạ.
Để rồi khi đến những câu thơ thứ hai, không kìm nén được cảm xúc người phụ nữ đã xé tan mọi rào cản để vươn mình đến với cánh cửa của tình yêu đích thực:
Ở đây ta thấy xuất hiện hai phạm trù không gian là sông và bể. Bể chính là thế giới rộng lớn, khoáng đạt, là khát vọng lớn lao, chân trời mơ ước của biết trăm ngàn con sóng; chỉ có bể mới có thể chứa đựng được tính khí thất thường của sóng. Còn sông, trong tương quan với bể, sông ở vị trí nhỏ hẹp hơn, sông có giới hạn, chật chội. Sông không thể hiểu hết tâm tư tình cảm không thể đồng cảm, chứa đựng với tính khí thất thường của sóng nên sóng phải buộc lòng tìm ra bể để được an ủi, sẻ chia, để được đắm say. Sóng là em, tình yêu của sóng cũng chính là tình yêu của em. Sóng tìm ra bể chính là hiện thân cho khát khao của em, khát khao được vươn ra biển lớn, kiếm tìm một bến bờ tình yêu chân thành, thấu hiểu. Từ “tận” mang sắc thái biểu trưng cho xa xôi, khó khăn. Soi chiếu đối sánh với sóng ta thấy được hành trình gian nan, xa xôi, trắc trở của người phụ nữ khi kiếm tìm tình yêu đích thực của cuộc đời mình. Thế nhưng câu thơ mang sắc thái mạnh mẽ thể hiện được sự kì công, quyết liệt của người phụ nữ trong tình yêu. Dám khát khao, dám mơ ước và dám hành động để đi tìm hạnh phúc cho cuộc đời mình. Con sóng trong thơ Xuân quỳnh thật phi thường có bản lĩnh và đầy cá tính. Đây là nét độc đáo của người phụ nữ hiện đại, vô cùng chủ động, táo bạo và đầy dũng cảm.
Lúc này trong tâm hồn và trái tim người phụ nữ đang chan chứa biết bao hạnh phúc, bao ước niệm tươi đẹp về tình yêu.
Bài văn mẫu 6Đại văn hào Mác-két đã từng nói rất hay về tình yêu: “Con bướm phải mất 180 triệu năm mới cất cánh bay lên được. Con người phải mất bằng ấy năm mới biết khóc, biết cười và biết chết cho tình yêu”. Tình yêu là món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng cho loài người. Đó cũng là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn đối với các văn nghệ sĩ. Nói đến thơ tình Việt Nam hiện đại, người đọc không thể không nhắc đến nữ hoàng tình yêu Xuân Quỳnh – người đã đem đến cho làng thơ Việt Nam một tình yêu nồng nhiệt, táo bạo mà thiết tha, dịu dàng, hồn nhiên, giàu tự cảm mà lắng sâu những trải nghiệm suy tư. “Sóng” là một trong áng tình ca hay nhất của Xuân Quỳnh
Với cấu trúc bài thơ đặc biệt, sóng và em song song tồn tại, hòa hợp vào nhau. Mỗi khổ thơ là khám phá thù vị về sóng cũng là một phát hiện mới mẻ của Xuân Quỳnh về tình yêu. Sóng là tiếng lòng yêu thương nồng cháy cất lên từ sâu thẳm đại dương của trái tim yêu.
Hồn nhiên, giản dị mà duyên dáng đằm thắm là vẻ đẹp độc đáo tạo nên sức quyến rũ của thơ Xuân Quỳnh. Những câu thơ mở đầu cũng không nằm ngoài vẻ đẹp ấy:
Giữa lòng biền khơi, sóng không bao giờ yên định mà luôn tồn tại ở những trạng thái đối nghịch. Lúc biển động giông tố, sóng tung bọt trắng xóa, dữ dội, cuồng nộ. Ấy là lúc sóng sống cuộc đời sôi nổi ồn ào của mình. Khi trời yên biển lặng, sóng dịu dàng ca hát bên hành dương xanh biếc. Ấy là lúc sóng chìm vào cõi dịu êm, yên lặng. Cũng như sóng, tâm hồn của người con gái khi yêu luôn xôn xao đầy biến động. Lúc dịu dàng, tha thiết, lúc mạnh mẽ, quyết liệt. Khi hiền hòa, yêu thương, khi hờn ghen, giận dữ. Bề ngoài yếu mềm nhưng bên trong kiên định. Giận hờn, dữ dội nhưng lại sẵn lòng bao dung, tha thứ, hi sinh, dâng hiến tất cả cuộc đời cho người mình yêu. Ngỡ ngàng trước thái cực trái ngược của trái tim con gái khi yêu. Trong “Thuyền và biển”, một lần nữa Xuân Quỳnh chia sẻ:
Trái tim người con gái đang yêu bên cạnh vẻ dịu dàng lặng lẽ là cái dữ dội, ồn ào. Và cái dữ dội, ồn ào được thể hiện rõ nét trong những khát khao tình yêu.
Xuân Quỳnh đã khéo vận dụng nghệ thuật ẩn dụ để từ quy luật muôn sông đổ ra bể mà gợi dậy hành trình đi tìm tình yêu đích thực của trái tim phụ nữ. Vì sông không hiểu nổi sóng nên sóng dứt khoát từ bỏ sông mà tìm ra biển lớn bao la để được thấu hiểu, để được vỗ về, chở che. Những người con gái khi yêu cũng vậy, luôn cháy bỏng những khát khao táo bạo: đó là khát khao đồng điệu, thấu hiểu, khát khao về một tình yêu lớn lao, cả cả chứ không bao giờ chịu chấp nhận cái nhỏ nhen, ích kỉ. Lâu nay người ta vẫn thường quan niệm phái nữ luôn bị động trong tình yêu. Dẫu yêu tha thiết, mãnh liệt cũng không dám thổ lộ, mãi mãi chôn chặt tiếng yêu trong đáy sâu con tim. Giờ đây, người con gái trong “Sóng” – Xuân Quỳnh đã táo bạo, vượt lên quan niệm cũ kĩ, lạc hậu, khuôn khổ cứng nhắc, chủ động giãi bày một các thành thực những khát khao đang cháy bỏng trong con tim mình. Không chấp nhận ngủ yên trong dòng sông lạnh chật hẹp, không cam chịu, nhẫn nhịn bao cay đắng, tủi nhục theo kiểu: Một duyên hai nợ âu đánh phận , Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn hay :Thiếp như cái chổi đầu hè – Phòng khi mưa nắng đi về chùi chân. Người con gái trong thơ Xuân Quỳnh man dại, quyết liệt vươn đến biển tình yêu mênh mông, đến bế bờ hạnh phúc viên mãn. Quả đúng là đến Xuân Quỳnh, thơ Việt Nam mới có tiếng nói bày tỏ những khát khao yêu thương vừa hồn nhiên chân thành, vừa mãnh liệt sôi nổi của một trái tim phụ nữ. Tiếng nói ấy hết sức quyết liệt, táo bạo, mới mẻ, hiện đại.
Đứng trước biển, nữ sĩ Xuân Quỳnh không chỉ nhận thấy giữa sóng và em mà còn phát hiện ra sự tương đồng giữa biển cả và tình yêu:
Từ ngàn năm trước đến vạn năm sau, từ khi con người chưa xuất hiện trên trái đất đến khi con người vĩnh viễn tan biến vào cõi hư vô, những con sóng cứ miệt mài xô vào bờ cát, vẫn náo nức cất lên bản tình ca tha thiết, ngọt ngào. Từ ngàn năm qua, sóng đã xôn xao, rạo rực như thế và ngàn năm sau, sóng vẫn cồn cào, da diết. Có khác nào sóng biển mãi xô bờ, yêu đương là khát vọng muôn đời của loài người. Hàng ngàn năm qua, con người đã yêu, hàng vạn năm sau.
Bài văn mẫu 7Văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ đã để lại nhiều tác phẩm mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn viết về đề tài đất nước. Thế nhưng đâu đó trên bước đường hành quân vẫn có những vần thơ tươi xanh vẫn có những đóa hoa nở dọc chiến hào cất lên bao lời ca say đắm về tình yêu đôi lứa. Bài thơ “Sóng” của nhà thơ Xuân Quỳnh sẽ đưa người đọc vào thế giới của tình yêu và cảm nhận những nét đặc sắc trong thế giới thơ tình của Xuân Quỳnh. Hai khổ thơ đầu bài thơ là những cảm nhận tinh tế sâu sắc của một trái tim yêu.
Mở đầu bài thơ Xuân Quỳnh đã quan sát và miêu tả những đặc tính đối lập của sóng:
Tác giả đã sử dụng cặp tiểu đối “dữ dội – dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ” để diễn tả những trạng thái bất thường, đa dạng của sóng. Cách ngắt nhịp câu thơ 2/3 đều đặn, nhịp nhàng tạo nên âm điệu của những con sóng gối lên nhau vô hồi, vô hạn vỗ vào bờ. Cách sử dụng liên từ “và” cho thấy những trạng thái đối lập này luôn tồn tại trong một thể thống nhất không mâu thuẫn mà đan xen vận động chuyển hóa không ngừng. Những trạng thái đối nghịch của sóng cũng chính là những biến động khác thường những cảm xúc đa dạng trong trái tim người phụ nữ.
Hình ảnh nhân hóa “sóng” tìm ra tận bể gợi người đọc liên tưởng đến hành trình tìm đến cái rộng lớn bao la của sóng:
Dòng sông chật hẹp không chứa nổi sự xoay trở của sóng. Sóng sẽ từ bỏ không gian chật hẹp ấy để đến với cái bao la khoáng đạt của biển cả một cách tự tin, chủ động. Động từ “tìm” cùng với giới hạn “tận bể” cho thấy sự kì công, quyết tâm và khao khát bứt phá của sóng. Khát vọng bứt phá của sóng cũng chính là khát vọng đi tìm hạnh phúc tình yêu của trái tim em. Người con gái đang yêu luôn nhận thức được những biến động khác thường của lòng mình, muốn vượt qua cái tôi hạn hẹp cá nhân không chấp nhận một tình yêu ích kỉ tầm thường mà muốn vươn tới một tình yêu lớn đẹp đẽ, đích thực, bao dung.
Ra đến bể con sóng thấy những dao động trái ngược kia là muôn thuở, vĩnh hằng với thời gian:
Đứng trước biển con người ta có cảm giác nghìn năm trước khi chưa có mình biển vẫn thế này, nghìn năm sau mình đã tan biến khỏi mặt đất biển vẫn thế kia, sẽ vẫn mãi còn hình ảnh những con sóng từ xa mải miết chạy vào bờ tan mình vào bờ bãi. Đối diện với sự bất diệt, trường tồn của biển nhà thơ liên tưởng tới một sự bất diệt khác. Đó là sự bất diệt của khát vọng tình yêu. Khát vọng tình yêu là khát vọng vĩnh hằng muôn thuở biết bao nhiêu thế kỉ đã qua con người đã đến và sống mà không thể thiếu tình yêu. Tình yêu khiến con người ta trẻ mãi, tái sinh như con sóng biển ào lên rồi lại tan ra hòa nhập vào biển cả.
Đoạn thơ đã giúp chúng ta hiểu được về tình cảm và hồn thơ của Xuân Quỳnh. Dù sống trong hoàn cảnh nào tiếng thơ của Xuân Quỳnh vẫn hồn nhiên tươi tắn với những khát vọng hạnh phúc đời thường. Đúng như lời chị viết:
Bài văn mẫu 8Xuân Quỳnh là gương mặt nhà thơ nữ tiêu biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Bằng tâm hồn nhạy cảm, nữ tính Xuân Quỳnh đã mang đến hơi thở đầy mới mẻ cho thơ tình Việt Nam, đặc sắc nhất trong những sáng tác của bà có thể kể đến bài thơ “Sóng”.
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói đằm thắm, nữ tính của tâm hồn người phụ nữ đầy nhạy cảm, tinh tế. Tuy trải qua một cuộc đời nhiều nỗi buồn nhưng Xuân Quỳnh không để lại trong thơ những cay đắng, những cảm xúc tiêu cực về cuộc đời mà luôn thể hiện tình yêu vừa chân thành vừa đằm thắm, vừa mãnh liệt lại vừa khắc khoải da diết.
Mượn hình ảnh con sóng ngoài tự nhiên, Xuân Quỳnh đã gợi ra biểu tượng tuyệt đẹp của tình yêu, những trạng thái của sóng đã trở thành những ẩn dụ về cảm xúc, tâm trạng và những khát khao của người con gái trong tình yêu. Đặc biệt, trong hai khổ thơ đầu, tác giả Xuân Quỳnh không chỉ thể hiện được những trạng thái đối lập của cảm xúc trong tình yêu mà còn là những khát khao vươn tới những điều vĩ đại, cao cả:
Trong khổ thơ đầu tiên, Xuân Quỳnh đã sử dụng hai cặp từ mang sắc thái đối lập để miêu tả đặc điểm của con sóng hay cũng chính là những trạng thái đối lập mà thống nhất trong tâm hồn người con gái trong tình yêu. Nữ sĩ sử dụng liên từ “và” để thể hiện quan hệ cộng hưởng, nối tiếp của những trạng thái đối lập trong tình yêu để tạo nên chỉnh thể thống nhất về cảm xúc. Khi yêu, người phụ nữ không chỉ có những giây phút nồng nhiệt, sôi nổi mà còn có những lúc bình lặng, lắng sâu.
Trong tình yêu, trái tim của chủ thể trữ tình thường có xu hướng tìm đến thế giới rộng lớn, nơi tình yêu có thể bộc lộ trọn vẹn những nồng nhiệt cũng như lắng sâu mà không chịu bó hẹp trong phạm vi nhỏ hẹp, tù túng:
“Hiểu nổi mình” là khát vọng muôn đời của con người, để hiểu được mình thì cần đặt bản thân trong phạm vi rộng lớn của cuộc đời, nơi chứa đựng những điều bí ẩn, kích thích sự tò mò, khám phá và tìm hiểu của con người. Trong câu thơ này, tác giả đã rất khéo léo khi sử dụng từ “tìm” để thể hiện sự chủ động của con sóng khi đang nỗ lực vượt qua khỏi phạm vi chật hẹp của sông để hướng tới cái bao la, rộng lớn của bể.
Qua bốn câu thơ đầu, tác giả Xuân Quỳnh đã chỉ ra những đặc điểm của tự nhiên của con sóng cũng là những trạng thái tự nhiên của tình yêu. Qua đó tác giả đi đến khẳng định sự tồn tại bất biến của tình yêu trong cuộc đời:
Bằng những cụm từ chỉ thời gian “ngày xưa”, “ngày sau”, tác giả Xuân Quỳnh đã khẳng định những đặc điểm, trạng thái của sóng đã có từ ngàn đời, bất biến qua thời gian. Trạng từ “vẫn thế” đã thể hiện chân lí không bao giờ đổi thay của tình cảm.
Bên cạnh con sóng ngoài tự nhiên, đến câu thơ này ta có thể bắt gặp hình ảnh của con sóng tâm hồn. Tác giả đã khái quát về quy luật của tình cảm, tình yêu là thứ tình cảm thiêng liêng, cháy bỏng, là nỗi khát vọng muôn đời trong trái tim những con người trẻ tuổi, trẻ lòng. Hành trình của sóng đến bờ cũng chính là hành trình của cảm xúc để đến bến bờ của tình yêu Nếu con sóng chủ động chối bỏ những chật hẹp để tìm đến không gian rộng lớn của đại dương thì “em” cũng luôn khát khao về một tình yêu lớn, khát khao về một tình yêu đẹp đẽ không có những nhỏ nhen, toan tính.
Bằng hình tượng sóng đầy đặc sắc, Xuân Quỳnh đã mang đến hơi thở đầy mới mẻ cho thơ tình Việt Nam, tình cảm nhẹ nhàng đầy nữ tính trong sóng cũng như bông hoa dọc chiến hào có thể làm dịu đi cái khốc liệt của chiến tranh, làm đắm say độc giả bao thế hệ.
Bài văn mẫu 9Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn chương, đặc biệt ghi dấu ấn ở thể loại thơ. Nói về tình yêu, mỗi nhà thơ có một sắc thái riêng. Nếu Xuân Diệu là mạnh mẽ sôi trào thì Xuân Quỳnh lại chọn cho mình sự da diết lắng sâu. Điều này thể hiện rất rõ qua tác phẩm “Sóng”, một tiếng thơ về tình yêu đậm chất Xuân Quỳnh. Bài thơ là những khám phá của tác giả về tình yêu, tìm ra được quy luật của tình yêu. Đó cũng là nội dung của hai đoạn trích sau:
“Sóng” là thành quả sau chuyến đi vào Diêm Điền của nhà thơ, được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ gồm tám khổ, mỗi khổ lại là một nét suy nghĩ của tác giả về tình yêu khi đứng trước những con sóng. Những lớp sóng nước chính là cảm hứng cho tác giả và cũng là hình tượng chính trong bài thơ, song hành với đó là hình tượng “em”. Hai khổ thơ trên là khổ năm và khổ sáu.
Bài thơ “Sóng” được viết nhân chuyến đi vào Diêm Điền của tác giả, sau này được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ là sự đúc kết những chiêm nghiệm của nhà thơ về tình yêu: quy luật tình yêu, ngọn nguồn của tình yêu và những xúc cảm khi yêu. Hai đoạn thơ trên là hai khổ đầu của tác phẩm.
Với Xuân Quỳnh, tình yêu cũng như con sóng, mang nhiều những nét đối cực:
“Dữ dội” nhưng cũng “dịu êm”, “ồn ào” nhưng cũng lại “lặng lẽ”. Đó là những sắc thái của con sóng nơi đại dương và cũng là sắc thái của người con gái trong tình yêu. Nhà thơ mượn con sóng tự nhiên để nói thay sóng lòng. Nếu sóng biển lúc dịu êm, lúc dữ dội thì trái tim người phụ nữ đang yêu cũng có lúc êm đềm, có khi lại giông tố. Sự tinh tế của nhà thơ không chỉ biểu hiện ở phép ẩn dụ mà còn được thể hiện ở cách sử dụng từ ngữ. Giữa những sắc thái đối cực nhau, nhà thơ đặt một liên từ: “và”. Không phải “nhưng” để thể hiện sự đối lập, nhà thơ dùng từ “và” để thể hiện sự song hành của hai trạng thái ấy. Một trái tim khi yêu không lúc nào cũng chỉ êm dịu hay lặng lẽ, không lúc nào cũng mãi ồn ào và sục sôi mà nó luôn tồn tại hai trạng thái đó. Nhạy cảm hơn, nhà thơ luôn đặt sự êm đềm xuống cuối câu thơ: “dịu êm”, “lặng lẽ”. Dường như luôn tồn tại hai sắc thái, song, tâm hồn người con gái luôn đổ về phía dịu dàng đó. Sóng ở đây cũng mang những nét con gái, đó là tính nữ mà nhà thơ đã lồng vào con sóng và cũng là sự ngầm khẳng định nét tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Xuân Quỳnh đã nhận ra một quy luật bất biến của tình yêu thông qua những con sóng: đó không phải là một trạng thái tâm lý đơn thuần mà là sự hòa kết của những nét đối cực giống như nốt trầm bổng trong bản tình ca lứa đôi.
Người con gái luôn khát khao trong tình yêu ấy còn hiểu được một điều, đó là tình yêu luôn hướng ra phái không gian rộng lớn:
Trong tự nhiên, sông đổ ra biển, nên những con sóng cũng vươn mình ra biển lớn. Những con sóng mới ban đầu chỉ là những gợn nước nhỏ, dần dần nó mang theo sức mạnh và khát vọng lớn lao để chuyển mình thành sóng sông, rồi thành con sóng bể. Chúng luôn có xu hướng thoát ra khỏi vùng không gian chật hẹp để đến với những khoảng không thoáng đạt. Đứng trước những con sóng ấy, nhà thơ nhận ra rằng: hành trình từ sông ra biển cũng là hành trình con người đến với tình yêu. Sông chính là sự hiện hữu cho những giới hạn cá nhân chật hẹp, mà con người muốn đến với tình yêu thì phải phá vỡ những giới hạn đó. Đó là hành trình dấn thân, tự nguyện và đam mê để kiếm tìm hạnh phúc và được sống trọn vẹn là mình.
Con sóng không chỉ hiện hữu trong những chiều kích không gian khác nhau mà còn tồn tại ở những chiều thời gian đối lập nhau:
Nhà thơ như đứng ở hiện tại, nhìn con sóng từ ngày xưa cho đến ngày sau để thấy sóng mãi vỗ nhịp ngoài đại dương, làm nên sức sống cho biển cả. Và người con gái cũng thế, trái tim mãi yêu dù là quá khứ, hiện tại hay tương lai thì đều là nguồn sống tiếp sức trẻ cho tâm hồn. Tình yêu cũng giống như ước mơ vậy, làm cho ta “trẻ” mãi, không phải là đôi mắt không mờ hay làn da không hằn vết chân chim, mà ta khỏe và trẻ trong tâm hồn, một tâm hồn rạo rực và giàu sức sống. Tình yêu chính là không có tuổi như thế, và người biết giữ tình yêu luôn cháy chính là giữ mãi cho mình một sức sống bền bỉ dẻo dai.
Xuân Quỳnh khám phá tình yêu không phải bằng lí trí mà bằng trực cảm của một trái tim yêu chân thành và hồn nhiên. Đằng sau con sóng ấy, đằng sau quy luật ấy, ta thấy chính bóng dáng của nhà thơ: một cô gái tinh tế, nữ tính, khao khát yêu và được yêu.
Bài văn mẫu 10Đó là lời thơ Xuân Quỳnh viết về niềm hạnh phúc đắm say của một người phụ nữ khi được yêu và hết lòng với người mình yêu trong “Tự hát”. Trong vốn thơ Xuân Quỳnh, ta bắt gặp rất nhiều bài thơ viết về những trăn trở, suy tư thổn thức của nữ sĩ về tình yêu. Bên cạnh những dòng thơ dạt dào xúc cảm trong “Tự hát”, “Sóng” cũng được xem là một bài thơ ấn tượng nhà thơ dùng hình tượng sóng để gửi gắm quan niệm về tình yêu. Hai khổ đầu bài thơ đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều cảm xúc và nghĩ suy.
Viết về tình yêu, Xuân Diệu mượn hình ảnh biển, rồi bãi bờ đại dương để gửi lòng mình vào hai câu thơ đượm hình ảnh trên. Còn Xuân Quỳnh, nữ sĩ cùng mượn đến hình ảnh sóng, một hình tượng đa nghĩa gợi nhiều cảm xúc để gửi gắm nghĩ suy của mình về tình yêu đôi lứa. Trong hai khổ thơ đầu, nữ sĩ Xuân Quỳnh xây dựng hình tượng sóng ấn tượng để qua đó nói đến những quy luật của tình yêu:
“Dữ dội – dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ”, đó là những trạng thái khác nhau của sóng trong lòng đại dương bao la rộng lớn. Nhưng đó dường như cũng chính là những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn người con gái đang yêu. Nếu như con sóng trong đại dương lúc dữ dội, lúc dịu êm lặng lẽ. Thì con sóng lòng cuộn trào trong trái tim yêu say đắm của người con gái cũng có lúc êm đềm sau những ngày giông bão. Với sự tinh tế của mình, Xuân Quỳnh đã biến những con sóng ngoài đại dương trở thành một chủ thể trữ tình đong đầy tâm trạng, ngổn ngang những cảm xúc phức tạp. Giữa các đối cực vừa dựng lên ấy, nhà thơ sử dụng liên từ “và” như để diễn tả sự tồn tại song song và sự chuyển hóa của các đối cực. Xuân Quỳnh gửi suy nghĩ của mình về tình yêu đằng sau sự khám phá về những đối cực của sóng, rằng: tình yêu đôi lứa cũng giống như con sóng ngoài biển cả, chẳng phải lúc nào cũng mang một trạng thái thuần nhất, tình yêu đôi lứa cũng có những lúc thăng lúc trầm, hòa kết với nhau tạo nên một tình yêu đáng nhớ, đáng trân trọng.
Đâu chỉ mang trong mình nhiều đối cực, sóng trong hai khổ thơ còn hiện lên trong không gian đối lập “sông – bể” và thời gian đối lập “ngày xưa – ngày sau”:
Dựa theo quy luật của tự nhiên, ta hiểu tất cả dòng sông đều đổ ra biển lớn, những con sóng nhỏ mang trong mình những khát vọng lớn luôn có xu hướng vượt thoát khỏi một không gian chật hẹp, có phần tù túng của sông ngòi để đến với những không gian rộng lớn, khoáng đạt, bao la hơn ngoài đại dương. Khám phá không gian tồn tại của sóng, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã phát hiện ra một quy luật sâu sắc và gửi nó qua đoạn thơ: hành trình từ sông nhỏ là biển lớn của những con sóng tự nhiên cơ hồ cũng chính là hành trình của con người đến với tình yêu của cuộc đời.
Hệt như những con sóng ngoài kia, để đến với tình yêu, con người dường như phải đối diện và vượt qua một hành trình đầy gian lao, thử thách của cuộc đời. Hành trình dấn thân đầy tự nguyện và đam mê ấy đưa dẫn con người đến với bến bờ hạnh phúc và giúp họ được sống trọn vẹn, sống thực là mình, sống thực với những cảm xúc, tâm trạng của mình. Trong chiều thời gian đối lập “ngày xưa – ngày sau”, từ hình ảnh sóng, ta cảm nhận được ý thơ Xuân Quỳnh muốn nhắc đến tình yêu rạo rực, nồng cháy trong trái tim yêu muôn đời. Những tình cảm, cảm xúc ấy có tác động mạnh mẽ, tạo nên ý nghĩa sự sống của con người. Từ việc cảm nhận được sự hiện diện của sóng trong dòng thời gian, nhà thơ Xuân Quỳnh đã thầm kín gửi gắm tới bạn đọc một quy luật về tình yêu rằng: tình yêu là một tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ, đó là tình cảm không tuổi và luôn song hành cùng với sự sống của mỗi con người trên hành trình tìm kiếm và chinh phục hạnh phúc.
Với trái tim yêu thiết tha, nồng nàn cùng lý trí sắc sảo và một tâm hồn chân thành, Xuân Quỳnh đã phát hiện và khái quát nên quy luật của tình yêu qua hình tượng sóng. Nét đặc sắc trong cả nội dung và nghệ thuật của hai khổ thơ này đã góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm cũng như khẳng định tài năng của nhà thơ Xuân Quỳnh.
Bài văn mẫu 11Không biết từ bao giờ nhịp sóng vỗ ngoài đại dương không chỉ làm thổn thức biển cả mà còn làm rung động biết bao trái tim người thi sĩ để làm nên con sóng nơi “gió cuốn mặt duềnh” mang bao dự cảm bất an trong thơ Nguyễn Du, “tiếng sóng cuốn bờ mây” của cuộc sống mới ấm no, bình an trong thơ Huy Cận (“Tiếng biển về khuya”), là tiếng lòng da diết của người con trai trong tình yêu trong cái nhìn Xuân Diệu (“Biển”),… Và càng không thể thiếu tiếng sóng vỗ nghìn đời như nhịp đập bền bỉ của người con gái khi yêu trong những câu thơ đầy nữ tính của Xuân Quỳnh- “Sóng”. Từ những câu thơ mở đầu đã cảm nhận được sức sống ấy:
Không còn phân biệt được sóng tạo nên Xuân Quỳnh, hay Xuân Quỳnh đã tạo nên sóng. Chỉ biết rằng người con gái ấy sinh ra là để dành cho thơ. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” được viết năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình), là tiếng thơ của những ngọt ngào, đắng cay từng trải trong tình yêu, khi đã vun đắp và trải nghiệm sự tan vỡ trong tình yêu mà vẫn thật tha thiết, tràn đầy khát vọng. Bài thơ có sự song hành hình tượng giữa “sóng” và “em”: “Sóng” và “em” có lúc tách ra để soi chiếu vào nhau, có lúc lại hòa hợp thống nhất. Sóng biển và sóng lòng, sóng nước và sóng tình ẩn hiện, đan nguyên vào nhau tạo ra những cảm xúc mới mẻ. Bởi thế, sóng có thể nói là một ẩn dụ không hoàn toàn cho em, cho vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu và trong cuộc sống.
Bằng cái nhìn thơ và tâm hồn nhạy cảm, Xuân Quỳnh đã phát hiện thấy ở hiện tượng sóng của tự nhiên không ít những đặc tính của người phụ nữ. Nghe tiếng sóng vỗ mà như nghe được tiếng lòng của mình, của những người con gái đang yêu:
Trong người phụ nữ, luôn tồn tại những trạng thái đối cực. Hai câu thơ có thể đúng với bao người nhưng nó không phải là lời của một nhà nghiên cứu trong tình yêu đứng ngoài nhìn vào. Nó được viết ra trước hết là một lời tự thú chân thành và tự nhiên đến độ khiến ta phải ngỡ ngàng: thì ra, trái tim của người phụ nữ luôn có những đối cực như thế: “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “lặng lẽ”. Nhà thơ đặt liên từ “và” – không phải bức tường ngăn cách mà là sự kết hợp, chuyển hóa. Như vậy, tình yêu không bao giờ là trạng thái tâm lí tuần nhất mà là sự hòa kết của những trạng thái khác nhau, thậm chí là đối lập như những nốt thăng, trầm làm nên bản tình ca đôi lứa. Người phụ nữ có thể ồn ào, dữ dội nhưng cuối cùng cũng là sự trở về của thiên tính nữ: dịu êm, lặng lẽ. Đó chính là sự hiện diện của cái “tôi” Xuân Quỳnh và cũng là sự hiện diện của “thiên tính nữ” – điều đặc biệt của tác phẩm.
Người phụ nữ luôn hướng tìm tới tự do:
Khám phá những không gian tồn tại của sóng, Xuân Quỳnh phát hiện ra: hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là hành trình con người đến với tình yêu: phải biết vượt qua những giới hạn bản thân chật hẹp để hòa nhập vào biển đời rộng lớn, kiếm tìm hạnh phúc. Đó là hành trình dấn thân tự nguyên, say mê để tìm đến hạnh phúc và sống trọn vẹn. Đó chính là điểm mới mẻ, hiện đại trong cảm xúc, tâm hồn người con gái: mạnh mẽ và tự do, sẵn sàng phá vỡ mọi giới hạn và rào cản để đến với hạnh phúc của mình – một sự kiếm tìm có ý thức trong tình yêu.
Tình yêu, với người con gái luôn là ước vọng, là đích đến và là nỗi bồi hồi, xao xuyến muôn đời:
Thán từ “ôi” được đặt lên đầu như một sự phát hiện đầy thú vị về trạng thái tình cảm đã trở thành quy luật muôn thuở rồi. Đối với người phụ nữ, tình yêu không có tuổi: “ngày xưa”, “ngày sau vẫn thế”: vẫn “dữ dội và dịu êm”, “ồn ào và lặng lẽ”. Tình yêu muôn đời, với muôn thế hệ nhưng với tuổi trẻ đang khát sống và khát yêu nhất, đặc biệt “bồi hồi”. Chẳng thế mà Xuân Diệu khẳng định:
(Xuân Diệu).
Tuổi trẻ là tuổi yêu, tình yêu luôn gắn với tuổi trẻ. Tiến sĩ Chu Văn Sơn từng viết: “Một trái tim đang nhớ là biểu hiện của một trái tim đang yêu” và một trái tim đã ngừng nhớ là biểu hiện của một tình yêu sắp sửa lụi tàn, của một sự sống cũng ngừng sôi sục. Nó không phải cái cảm giác bâng khuâng, nhẹ như mây bay thuở áo trắng hay sự lo toan khi đã “đứng tuổi”; đơn giản chỉ là sự bồi hồi, sự nhiệt huyết và hết mình của tuổi trẻ dám yêu, dám sống vì tình yêu ấy. Ngày xưa và ngày sau, vẫn thế….
Như vậy, qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả những trạng thái, cung bậc khác nhau của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành. Bề sâu tâm tình của nhân vật trữ tình kết hợp với hình thức thơ 5 chữ, việc sử dụng và “phá vỡ” ẩn dụ chính là yếu tố quyết định giá trị bài thơ. Bởi thế, con sóng ấy vừa là biểu hiện hiện của tình yêu muôn đời vừa là nhịp đập của tình tình yêu hiện đại hôm nay.
“Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào một thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điều đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ.” (Chu Văn Sơn). Và Xuân Quỳnh đã sống mãi bằng những câu thơ như thế.
Cập nhật thông tin chi tiết về Top 10 Bài Văn Phân Tích “Cảm Hoài” Của Đặng Dung Hay Nhất trên website Bpco.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!