Xu Hướng 12/2023 # Tuyển Tập Truyện Ngắn Cho Trẻ Em (28 Truyện) Truyện Hay Cho Bé # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Tuyển Tập Truyện Ngắn Cho Trẻ Em (28 Truyện) Truyện Hay Cho Bé được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Bpco.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Ở một ngôi làng nọ, có một cậu bé tên Bo sống trong một căn nhà nhỏ cùng với mẹ của mình. Hàng ngày sau giờ đến lớp, Bo vào rừng nhặt củi giúp mẹ.

Một hôm, trên đường đi vào rừng, Bo nhìn thấy một chú cún con bị bỏ rơi bên vệ đường, trông chú rất đáng thương và buồn bã. Thấy chú Cún bị đói, Bo quyết định mang chú về nhà chăm sóc.

Về đến nhà, Bo nói với mẹ:

– Mẹ ơi, con nhặt được chú cún này. Mẹ cho cún ở nhà với con nha mẹ?

Mẹ nhìn Bo ái ngại:

– Nhà mình chật lại nghèo nữa, làm sao nuôi được nó hả con?

– Không sao ạ, con sẽ nhường phần cơm của mình cho nó và ngủ cùng với nó mẹ nha!

Thấy Bo thật sự thương chú cún, mẹ cậu cũng không nỡ từ chối. Bà gật đầu đồng ý. Bo rất vui sướng, ôm chú cún nhỏ và lòng và vuốt ve chú. Cậu đặt tên cho cún là Mi Lu.

Từ ngày có Mi Lu, đi đâu Bo cũng dẫn chú theo, cả hai trở thành đôi bạn gắn bó thân thiết với nhau. Có quà bánh gì, Bo đều chia cho Mi Lu một nửa. Ngoài giờ học, Bo dẫn theo Mi Lu vào rừng kiếm củi. Rồi cậu dắt chú cún lên đồi chơi đá banh, ném củi và trốn tìm. Tối đến, cả hai cùng ngủ với nhau trên chiếc giường ọp ẹp và mơ những giấc mơ thật đẹp.

Một ngày nọ, chú cún Mi Lu bị bệnh nên không theo Bo vào rừng nhặt củi. Hôm đó trời mưa nên đường trơn trượt, trên đường về Bo bị trượt chân ngã xuống hố. Thấy con lâu quá không về, mẹ Bo vội vã đi tìm cùng với những người hàng xóm tốt bụng. Cún con cũng tham gia tìm kiếm và đánh hơi tìm thấy cái hố nơi Bo bị rơi xuống, chú sủa to lên báo hiệu cho mọi người biết.s

Biết Bo đang ở dưới hố, một người hàng xóm chạy về nhà lấy sợi dây thừng. Nhờ sợi dây thừng, mọi người kéo được Bo lên khỏi hố. May mắn là cậu bé chỉ bị trầy xước nhẹ. Bo vui mừng cảm ơn mọi người đã giúp đỡ mình và ôm chú chó nhỏ vào lòng âu yếm. Từ đó tình bạn của Bo và Mi Lu ngày càng khăng khít hơn.

Xưa lắm rồi, các màu trên mặt đất bỗng dưng cãi nhau. Màu nào cũng tự cho rằng mình là tuyệt hảo, quan trọng nhất, hữu ích nhất và được ưa chuộng nhất.

Màu lục bắt đầu: Dĩ nhiên là tôi quan trọng nhất. Tôi là biểu tượng của sự sống và niềm hi vọng. Tôi được chọn để tạo thành cỏ cây. Thiếu tôi cảnh vật sẽ tiêu điều. Hãy nhìn vạn vật xung quanh, các bạn hẳn thấy tôi đúng.

Màu xanh ngắt lời: Bạn chỉ nghĩ đến những gì trên mặt đất, hãy ngước nhìn trời xanh và dõi ra biển biếc. Từ đáy biển sâu đến chín tầng mây cao, sự sống tồn tại được đều nhờ vào nước. Trời xanh bao la mang hình ảnh của sự thanh bình. Nếu không có thanh bình muôn loài ai nấy cũng sẽ xác xơ.

Màu tím cãi lại: Tôi là màu của sức mạnh. Từ vua quan đến hàng giáo phẩm đều chọn màu của tôi vì tôi tượng trưng cho quyền uy và thông thái. Ai ai cũng sẵn sàng lắng nghe và tùng phục.

Màu chàm tiếp lời, giọng nhỏ nhẹ nhưng quyết liệt: Các bạn hãy nghĩ đến tôi xem nào. Tôi là màu của sự tĩnh lặng. Phải để ý đến tôi vì thiếu tôi, các bạn sẽ trở nên hời hợt, thiếu sâu sắc. Tôi đại diện cho tâm hồn, ý tưởng và sự tinh tế. Ai cũng cần tôi để có được một cuộc sống cân bằng cũng như tạo nên sự khác biệt. Tôi hữu dụng cho lòng tin, những giây phút trầm tư, an lạc nội tâm.

Đến lúc này màu đỏ không thể kiềm chế được nữa, quát to: Ta đây mới đích thị là “SẾP”. Ta là máu, là sinh lực. Ta là màu báo nguy, màu của sự can đảm. Ta là lửa. Ta là màu của đam mê, của tình yêu, của hoa hồng, của hoa anh túc… Thiếu ta, địa cầu sẽ ảm đạm như mặt trăng kia.

Và rồi các màu lại tiếp tục khoe khoang; mỗi màu tự cho mình mới là quan trọng thật sự. Cuộc tranh cãi càng lúc càng căng thẳng, bỗng nhiên một tia chớp xẹt đến, tiếp theo ngay sau là một tiếng sét to. Mưa như thác đổ xuống các màu khiến chúng phải sát cánh lại để che chở cho nhau.

Mưa nói: Thật là ngốc nếu các bạn mãi chống đối nhau. Các bạn không biết rằng mỗi màu được tạo ra cho một mục đích rõ ràng sao? Mỗi màu đều có một tính cách độc nhất và đặc biệt trong thế giới này. Hãy bắt tay nhau và cùng đến với tôi.

Các màu nghe có lý và làm theo đề nghị của mưa. Chúng đến bắt tay nhau.

Mưa khuyên tiếp: Từ giờ trở đi, khi nào mưa mỗi bạn hãy nổi lên thành một cầu vồng trên bầu trời để chứng tỏ các bạn đã chung sống hòa bình. Cầu vồng là hình ảnh của sự hy vọng và hòa giải.

Ở nơi bìa rừng, có một gia đình chim sâu sống rất vui vẻ bên nhau. Gia đình chim có 3 thành viên là chim bố, chim mẹ và cô bé chim sâu xinh xắn.

Một hôm chị chim sẻ bay ngang, nhìn thấy chim sâu chị trầm trồ khen ngợi:

– Ôi chim sâu bé, em thật là dễ thương, bộ lông của em đẹp quá.

Nghe thấy thế, chim sâu thấy rất thích. Cô bé chạy ngay vào nhà soi gương và tủm tỉm cười.

Từ hôm đó, cô bé chim sâu suốt ngày chỉ lo chải chuốt, không chịu theo bố mẹ đi tìm thức ăn và làm việc nhà. Cô bé sợ những công việc ấy làm vấy bẩn bộ lông xinh đẹp của mình. Do được cô bé chăm chút kỹ nên bộ lông chim sâu ngày càng đẹp và óng mượt hơn.

Vì thế, mỗi khi cô bé chim sâu xuất hiện, các loài chim khác đều xuýt xoa khen ngợi bộ lông óng mượt ấy. Điều này càng khiến chim sâu kiêu ngạo và hay lên tiếng chê bai kẻ khác. Đặc biệt là bồ câu, người bạn thân của cô bé cũng không thoát khỏi những lời chê hợm hĩnh của chim sâu.

– Cậu càng ngày càng xấu thế, sẽ không có ai chơi với cậu đâu.

Nghe bạn chê mình, bồ câu không nói gì mà buồn bã bay đi nơi khác.

Càng ngày chim sâu càng kiêu căng. Do nghĩ rằng bộ lông của mình là đẹp nhất, nên gặp ai cô bé cũng không ngớt lời dè bỉu. Vì vậy mà dần dần không còn ai thích chơi với chim sâu nữa. Mỗi lần chim sâu sà xuống ngỏ ý muốn chơi cùng thì các bạn đều bay đi mất, bỏ mặc nó lại một mình. Vài lần như thế, chim sâu nhận ra không có bạn sẽ buồn như thế nào. Cô bé buồn lắm, bay về nhà và kể hết mọi chuyện cho mẹ nghe.

Sau khi lắng nghe cô bé kể, mẹ chim sâu mới nhỏ nhẹ khuyên rằng:

Nghe lời mẹ, chim sâu đã đến nhà từng bạn để xin lỗi. Thấy chim sâu thật lòng, các bạn cũng không giận nữa. Cả bọn cùng nhau vui vẻ bay lên bầu trời xanh.

Ý nghĩa câu chuyện: Trong cuộc sống, bé cần có đức tính khiêm tốn. Dù có xinh đẹp hơn ai, bé cũng không bao giờ được coi thường người khác. Tính kiêu căng tự phụ sẽ làm cho bạn bè xa cách và không chơi với bé nữa đấy.

Ngày xưa, có một con khỉ sống trên một cây cao lớn và làm bạn với một con cá sấu sống ở dòng sông gần đó. Mỗi ngày, con khỉ sẽ hái những quả táo ngon ở trên cây và đem tặng bạn cá sấu. Nhận được quà từ khỉ, cá sấu đem về và ăn chung với vợ mình. Vợ của cá sấu là một người rất tham ăn và muốn ăn cả trái tim của chú khỉ. Nghe mong muốn đó của vợ, cá sấu rất băn khoăn nhưng vẫn làm theo ý vợ.

Cá sấu đã mời khỉ ngồi trên lưng mình để đưa đi tham quan dòng sông nhưng thật ra nó có ý định giết khỉ và lấy quả tim khi bơi đến giữa dòng. Khi khỉ biết được mưu đồ xấu xa của cá sấu, nó đã nhanh trí nói với cá sấu rằng mình để quả tim ở trên cây. Nếu muốn lấy thì hãy chở nó quay lại. Cá sấu tin lời, chở khỉ quay trở lại để lấy quả tim. Thế nhưng, khi đến nơi, khỉ đã thoăn thoắt trèo lên cây và chẳng mấy chốc biến mất. Và thế là, kế hoạch của cá sấu đã hoàn toàn thất bại.

Ý nghĩa của câu chuyện: Khi gặp tình huống khó khăn, con hãy bình tĩnh và sử dụng trí thông minh của mình để vượt qua điều đó.

Ngày xửa ngày xưa, có một người đàn ông tham lam sống ở thị trấn nhỏ nọ. Người đàn ông này vô cùng giàu và có một niềm say mê đặc biệt với vàng cùng những thứ lạ mắt. Mặt khác, ông ta cũng rất yêu thương con gái duy nhất của mình hơn bất cứ điều gì trên đời.

Một ngày nọ, người đàn ông tình cờ gặp một nàng tiên khi mái tóc của nàng tiên nữ ấy đang mắc kẹt vào một nhánh cây. Không suy nghĩ nhiều, người đàn ông liền lao đến và giúp đỡ nàng tiên.

Ngay sau đó, lòng tham nổi dậy, ông ta lập tức yêu cầu nàng tiên đáp lại sự giúp đỡ bằng việc ban cho ông một điều ước. Người đàn ông ước rằng tất cả những gì ông ta chạm vào đều sẽ hóa thành vàng. Vị tiên nhận lời.

Sau khi có được điều ước, người đàn ông tham lam vội vã về nhà để cho vợ và con thấy điều kỳ diệu mà mình có được. Khi ông ta vừa đến nhà, cô con gái yêu chạy ra đón và vô tình chạm vào tay cha. Ngay lập tức, toàn thân cô hóa thành vàng. Người đàn ông lúc này vô cùng hối tiếc về ước muốn sai lầm kia và dành quãng đời còn lại để tìm kiếm nàng tiên đã ban cho mình điều ước đó.

Một ngày nắng đẹp, chú Sóc đi dạo trên bờ sông và thấy bên kia sông có một chú Thỏ cũng đang đi dạo chơi.

Sóc tinh nghịch, nhặt một viên sỏi ném về phía Thỏ. Viên sỏi rơi xuống nước gần nơi Thỏ đứng làm nước bắn lên tung tóe vào mặt và người Thỏ.

Chú Thỏ giận quá, cúi đầu nhặt viên đá ném trả lại bên Sóc. Đá cũng rơi xuống nước và sóc cũng bị ướt như Thỏ.

Lần này đến lượt Sóc tức giận. Sóc lượm một viên sỏi lớn hơn và ném qua bên Thỏ. Cứ thế, chú Sóc và chú Thỏ ném qua ném lại tới khi cả hai cùng mệt nhoài. Sau cùng, Sóc nói với Thỏ:

Thỏ chạy qua cầu và chìa tay ra nói:

Chú Sóc và chú Thỏ cầm tay nhau vừa đi,vừa hát thật là vui ghế.

Ngày xưa, các loài vật đều biết nói và hiểu tiếng của nhau. Chúng cùng sống với nhau trong một ngôi rừng và rất yêu thương nhau. Cùng sống trong một khu rừng có một con Hổ rất hung ác. Hổ thường hay bắt nạt các con vật khác nên các con vật vừa ghét vừa sợ Hổ xám. Một hôm, Hổ đi kiếm mồi mãi mà không được, nó vừa đói, vừa mệt, nó nằm im để tiếp tục rình mối. Bỗng Hổ nhìn thấy một chú Cóc xanh ngồi chồm hổm ở bờ suối. Hổ nhìn Cóc chầm chầm và quát to: Cóc kia, tao sẽ ăn thịt mày! Nghe Hổ quát, Cóc rất lo sợ nhưng cố giữ bình tĩnh và Cóc nghĩ ra một mẹo. Cóc liền nói: Anh đừng cậy to lớn mà bắt nạt tôi, có giỏi anh hãy thi tài với tôi xem ai hơn nào. Nghe Cóc nói vậy, Hổ tức quá, nó gầm lên: Được, nếu mày muốn thì thi, nếu mày thua tao sẽ ăn thịt mày ngay lập tức! Cóc nói: Bây giờ tôi và anh thi nhảy qua suối, ai nhảy qua trước thì người đó sẽ thắng cuộc. Nghe Cóc nói vậy, Hổ bằng lòng ngay, nó bảo: Mày bé tao cho mày nhảy trước. Cóc vội đáp: không anh lớn hơn anh cứ nhảy trước đi, em bé em sẽ nhảy sau. Hổ đồng ý và nó vươn người lao vút qua bờ suối bên kia. Nhưng lạ thay, vừa mới đến nơi Hổ đã thấy Cóc ngồi phía trước, giương đôi mắt lồi nhìn nó và cười. Hổ vừa tức, vừa xấu hổ vì thua cuộc, nó gầm lên và chạy biến vào rừng. Thế là Cóc thoát chết, nó sung sướng vui đùa cùng các bạn. Các cháu thử đoán xem: Cóc đã làm thế nào để nhảy sang được bờ bên kia trước Hổ?

– Mẹ thấy buồn khi con không nghe lời mẹ dặn. Bây giờ trong nhà không có cái gì ăn cả là tại vì con mải chơi, không đi tìm trái cây.

Khỉ con biết lỗi, cúi đầu xin lỗi me. Mẹ cõng Khỉ con trên lưng đi tìm trái cây ăn cho bữa tối.Một hôm, mẹ bị trượt chân ngã, đau quá không đi kiếm ăn được. Mẹ nói với Khỉ con:

Khỉ con nghe lời mẹ dặn, mang giỏ trên lưng và chạy xuống núi đi tìm trái cây. Trên đường đi, Khỉ con thấy bắp bèn bẻ bắp, thấy chuối bèn bẻ chuối và khi thấy Thỏ con đang đuổi bắt Chuồn Chuồn, Khỉ bèn tự nhủ: “Mình không nên ham chơi, về nhà kẻo mẹ mong”.

Và thế là Khỉ con đi về nhà. Mẹ thấy Khỉ con về với thật nhiều trái cây thì mừng lắm. Mẹ khen:

– Khỉ con biết nghe lời mẹ, thật là đáng yêu!

Ngày xưa, có một hoàng tử muốn cưới một nàng công chúa, nhưng công chúa phải cho ra công chúa, phải hoàn thiện toàn mỹ. Hoàng tử bèn chu du khắp thiên hạ để kén vợ. Công chúa thì chẳng thiếu gì, nhưng nàng nào cũng có vài nhược điểm hoặc tật xấu. Thế là một ngày kia, hoàng tử đành buồn rầu trở về nhà.

Đến tối, nổi lên một cơn giông tố kinh khủng. Mưa ào ào như xối. Có tiếng gõ cửa lâu đài. Lão vương thân chinh ra mở cửa.

Sáng ra người ta hỏi thăm đêm qua nàng ngủ có yên giấc không. Nàng đáp :

– Suốt đêm tôi không chợp mắt, vì nằm phải vật gì răn rắn, thâm tím cả mình mẩy.

Hoàng hậu bèn phán :

– Công chúa ra công chúa thật! Đây chính là nàng công chúa toàn thiện toàn mỹ, nằm trên hai mươi lần đệm nàng vẫn thấy đau vì một hạt đậu.

Hoàng tử cưới nàng làm vợ và hạt đậu được bày trong một phòng triển lãm, đến giờ vẫn vào xem được, vì chưa có ai lấy đi cả.

Chuyện tôi kể đến đây là hết và tôi xin cam đoan với các bạn là chuyện có thật đấy.

Ngày nào cũng phải ăn một thứ cỏ ba lá và gặm nhấm mãi vỏ cây hồ đào, Thỏ Côxôi chán ngấy lên rồi. Nó bèn mò vào vườn bắp cải mới trồng của một bác nông dân. Nhiều bắp cải non đã bị thỏ xơi gọn. Bỗng bác nông dân xuất hiện. Bác khoát tay nói:

– Côxôi ơi! (bác nông dân bảo con thỏ đã ăn no bụng và lúc này đang chùi mép)

– Ta và mi chưa có giao kèo gì với nhau cả. Ta trồng bắp cải đâu phải cho mi. Nếu như mi cứ ăn mãi như vậy thì ta sẽ trắng tay, mùa thu lấy gì mà làm dưa?

– Làm dưa ư? (Thỏ ngạc nhiên)

– Cải bắp cũng làm dưa được sao? Hẳn là phải ngon lắm nhỉ?

– Bây giờ chưa phải thời kỳ làm dưa. Tốt nhất mi đừng có đụng tới vườn rau của ta nữa, mùa đông tới, mi hãy lại đây, ta sẽ cho ăn dưa bắp cải.

Thỏ hứa là sẽ không phá vườn rau. Mùa hè, nói chung nó ít phải lo lắng, vì cỏ ba lá ngoài đồng rất sẵn, còn cỏ trên các cánh đồng cũng không hiếm. Nghĩ vậy, thỏ vẫy vẫy cái đuôi ngắn tũn một cách sung sướng.

Thế rồi mùa đông tới, thỏ tìm gặp lại bác nông dân để xin bắp cải muối dưa và đã được bác chiêu đãi một bữa luý tuý. Từ đó thành lệ, ngày nào thỏ cũng được ăn dưa bắp cải. Nhưng mới tới lễ Giáng sinh, toàn bộ số bắp cải muối trong thùng đã hết nhẵn, thế là mùa đông chưa qua, mà thức ăn trong nhà đã chẳng còn gì.

Thấm thoắt đã sang mùa xuân. Bác nông dân bảo thỏ:

– Thỏ ơi, ruộng nhà anh rộng hơn ruộng nhà tôi, vậy nên trồng bắp cải đi.

– Nhưng tôi không có cải giống (Thỏ buồn rầu đáp)

– Đến Riga mà mua. Mùa xuân nào tôi chẳng mua giống ở đó.

Bác nông dân tìm cách thoát khỏi thỏ. Thỏ kiếm đâu ra tiền để mua vé tàu? Nhưng chú thỏ này của chúng ta không đến nỗi ngốc nghếch, mặc dù đôi tai của nói ngắn hơn so với đôi tai của đồng loại. Nó hăm hở đứng ở nhà ga để chờ tàu và nó thấy bất kỳ ai đến nhà ga cũng đều bỏ tiền ra mua vé.

– Các bác định làm gì với những chiếc vé này? (Nó hỏi)

– Chúng tôi đến Riga (mọi người đáp)

– Thế lên tàu không có vé, được chứ? (Thỏ hồi hộp)

– Không thể được.

Thật chả ra sao! Đành phải quay về thôi, không cần đến Riga, không cần mua bắp cải giống nữa. Nó ngồi xuống bên đường và lau nước mắt. Bỗng có tiếng thét kinh hoàng vang trên đầu nó: “Chó săn đấy!” Thỏ thấy lạnh toát ở chỗ đuôi, toan trốn chạy, song nó lại đứng ngây ra ở bên cột đèn. Và cũng thật lạ thay. Không phải là chó săn mà là những ngôi nhà nhỏ di động trên các bánh xe tiến về phía nhà ga, còn mọi người thì vội vã leo lên đó.

“Họ đến Riga đấy!” (Thỏ ngạc nhiên nghĩ)

– Chúc lên đường may mắn! (Thỏ hét to khi tàu chuyển bánh)

“Gượm đã, mà vì sao ta lại không đến chơi Rừng Thú nhỉ?” – Thỏ nghĩ và nhảy luôn lên xe hoả, ngồi nghiêm chỉnh như Thượng đế. “Ê, ta muốn đến tận Riga cơ, đời thỏ của ta không còn gì hơn thế”.

Và thế là thở cảm thấy vô cùng thú vị khi được ngồi trên tàu hoả, quên luôn cả ý định xuống chơi Rừng Thú. Còn đoàn tàu thì cứ từ từ tiến về phía nhà ga.

Tới nhà ga, Thỏ vội vã tìm quầy bán cây giống.

– Anh bạn trẻ cần gì? (Người bán hàng hỏi một cách lịch sự)

– Tôi cần cây bắp cải giống (Thỏ nhỏ nhẹ đáp)

– Chị không có bắp cải giống nào khác nữa à? (Thỏ dè dặt hỏi)

– Không (Người bán hàng khoát tay)

– Tôi cần bắp cải muối dưa (Thỏ không giấu diếm nữa)

– Anh cần bắp cải muối dưa ư? (người bán hàng thốt lên với một giọng dễ nghe)

– Thứ đó chúng tôi vẫn thường cho không.

Vừa nói chị ta vừa lục trong túi giấy số bắp cải còn sót đưa cho thỏ và dặn thêm

– Đưa về trồng, đợi đến Lễ Giáng sinh sẽ có dưa chua ăn.

Thỏ hí hửng trở về nhà. Nó đem trồng bắp cải ngay trên khu đất đồi ẩm ướt rồi tự ngồi canh gác để muông thú khỏi đến phá phách. Vợ thỏ cùng với lũ con suốt từ sáng đến tối ra sức tưới tắm cho bắp cải. Khi một cây cải ba lá bắt đầu cuốn, thỏ liền nhổ lên:

– Sói sẽ xé xác ta, nếu đây không phải là bắp cải muối dưa thật sự (Thỏ vừa nói vừa thong thả nhấm chiếc lá nhỏ xíu)

Giờ thì cả nhà thỏ không rời mắt khỏi vườn bắp cải, suốt mùa hè chúng được mặc sức thưởng thức cải muối dưa và luôn tấm tắc khen ngon.

Thỏ ta rất dương dương tự đắc. Nó mời từng người một tới nhà ăn cải bắp muối dưa và luôn mồm kể chuyện nó đã đến Riga mà không mua vé như thế nào.

Từ đó, cây bắp cải của thỏ được mang cái tên là Hoa Chua Me Đất còn những hành khách đi tàu không chịu mua vé, ấy là họ hàng nhà Thỏ.

Ngày xưa ngày xửa, có con dê cái đã già, nó sinh ra bảy con dê con. Ở đời thì mẹ nào mà chả thương yêu con của mình, dê mẹ cũng vậy, nó vô cùng yêu thương đàn con nhỏ của mình. Vào một ngày kia, trời nắng đẹp nên dê mẹ quyết định vào trong rừng sâu để tìm kiếm những thức ăn ngon cho đàn con, nó gọi cả bảy đứa con của mình lại và dặn dò thật kĩ:

Bảy con dê con đều đồng thanh thưa:

Dê mẹ vui vẻ kêu be be mấy tiếng rồi cũng yên trí bắt đầu lên đường vào trong rừng. Nhưng dê mẹ đi chưa được bao lâu thì cửa nhà có người gõ và gọi rất to:

– Ra mở cửa nào, những đứa con yêu dấu của mẹ, mẹ về rồi đây, còn mang theo rất nhiều quà cho các con này.

Mấy con dê con ở trong nhà nghe thấy ngoài cửa có tiếng gọi khàn ồ ồ thì ngay lập tức nhận ra được đấy là con chó sói giả dạng mẹ mình. Đám dê con liền đáp lại:

– Bọn tao sẽ không mở cửa cho mày đâu, mày không phải là mẹ của bọn tao, vì giọng nói của mẹ tao thanh trong rất dễ thương, còn giọng nói của mày cứ khàn ồ ồ, mày chính là con chó sói xấu xa rồi.

Vậy là sói ta lại chạy ra chỗ hàng xén, nó mua cục phấn rất to ăn vào để giọng nói được thanh. Sau đó nó lại trở lại căn nhà của đám dê, nó gõ cửa rồi gọi vào:

– Ra mở cửa nào, những đứa con yêu dấu của mẹ, mẹ về rồi đây, còn mang theo rất nhiều quà cho các con này.

Khi con sói vịn chân nó lên trên cửa sổ, đám dê con trong nhà liền nhận ra và lại đồng thanh đáp lại:

– Bọn tao sẽ không mở cửa cho mày đâu, mày không phải là mẹ của bọn tao, vì chân mẹ bọn tao không có đen sì như chân mày đâu, mày chính là con chó sói xấu xa rồi.

Lần này chó sói chạy tới chỗ bác thợ hàng bánh mì và nói với bác:

– Này bác thợ, chân tôi không may vấp bị thương rồi, bác có thể làm ơn mà đắp cho tôi ít bột nhão được không?

Bác thợ hàng bánh mì tốt bụng liền đắp vào chân chó sói ít bột nhão. Xong xuôi sói ta lại chạy tới chỗ nhà bác thợ xay bột, nó nói với bác thợ:

– Này bác thợ, bác làm ơn hãy rắc cho tôi ít bột trắng lên phần chân đã đắp bột nhão của tôi được không?

Bác thợ xay bột nhìn nó rồi nghĩ thầm: “Con chó sói này chắc chắn đang định lừa ai đó đây”. Nghĩ vậy nên bác thợ liền từ chối yêu cầu của nó. Nhưng con chó sói lại hăm dọa bác:

– Nếu như bác không rắc bột lên cho tôi thì tôi lập tức ăn thịt bác.

Bác thợ xay bột nghe sói nói vậy thì lấy làm sợ hãi lắm, không còn cách nào khác bác đành phải rắc lên chân của nó phần bột màu trắng nó muốn.

Và con chó sói quỷ sứ ấy lại mon men đến cửa nhà của đàn dê con một lần nữa, nó gõ cửa rồi gọi to:

– Ra mở cửa nào, những đứa con yêu dấu của mẹ, mẹ về rồi đây, còn mang theo rất nhiều quà trong rừng cho các con này.

Đám dê con trong nhà liền nói:

– Để cho chúng con xem chân mẹ nào, xem có phải là mẹ thân yêu của chúng con không?

Chó sói cũng không ngần ngại đặt luôn chân mình lên trên cửa sổ. Khi đám dê con trong nhà nhìn thấy chân màu trắng thì yên trí nghĩ rằng đúng là mẹ chúng đã về thật rồi nên mới mở cửa. Không ngờ rằng kẻ tới lại là con chó sói nham hiểm. Đàn dê con thấy chó sói thì vô cùng hoảng sợ, chúng lập tức chạy toán loạn tìm chỗ để trốn. Có một con dê chui ngay dưới gầm bàn, và con thứ hai thì lại chui vào trong gầm giường, đến con thứ ba lại chui vào trong lò, còn con thứ tư thì lại ẩn nấp ở trong bếp, đến con thứ năm thì nó lập tức chui vào trong tủ, và con thứ sáu chỉ biết chạy vào phía sau cái chậu giặt quần áo để trốn, nhưng con thứ bảy lại chui hẳn vào trong chiếc hộp của hồng hồ quả lắc ở trên tường.

Tuy nhiên chó sói đều có thể tìm ra chỗ trốn của đám dê con. Nó cũng không mất thời gian lựa chọn, bắt được con nào thì nó lập tức nuốt chửng con ấy, hết con này đến con khác. May mắn sao chú dê con nhỏ nhất đang nấp ở trong chiếc đồng hồ quả lắc là sói ta không tìm ra nổi.

Sau khi cơm thèm ăn của mình đã được thỏa mãn, chó sói lúc này mới khệnh khạng vác theo cái bụng căng trong đi ra ngoài cánh đồng trồng cỏ tươi xanh, nó tìm lấy một gốc cây cổ thụ có bóng mát để nghỉ ngơi, chỉ một lát là ngủ thiếp đi.

Không lâu sau đó thì dê mẹ kiếm ăn trong rừng sâu cũng trở về nhà. Nhưng nó chỉ biết kêu trời một tiếng, cảnh vật xung quanh khiến nó nhìn mà xót hết cả lòng, cửa nhà thì mở toang, trong nhà bàn ghế đều đổ ngã lổng chổng và ngổn ngang cả, chậu giặt quần áo cũng vỡ tan tành, còn chăn gối thì vương vãi ở khắp nơi. Mà dê mẹ tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy bóng dáng con dê con nào.

Dê mẹ cứ thế khản giọng gọi tên của từng đứa, nhưng cũng không thấy con nào trả lời cả. Nó cứ gọi mãi cho đến tên của con dê út, lúc này nó nghe thấy có tiếng thưa khe khẽ ở đâu đó:

– Mẹ thân yêu, con đang trốn trong chiếc hộp đồng hồ quả lắc treo ở trên tường đây!

Dê mẹ lập tức chạy tới để bế con ra khỏi chiếc hộp đồng hồ. Sau đó dê con liền kể lại cho mẹ mình nghe mọi chuyện xảy ra, việc chó sói đến như thế nào và ăn thịt các anh của nó ra sao.

Dê mẹ mất con thì than khóc vô cùng thảm thiết, cùng một lúc mà nó mất đi cả sáu đứa con yêu quý, nó cứ than khóc mãi cho sáu đứa con đáng thương xấu số. Nó vô cùng đau buồn nhưng vẫn cứ chạy đi tìm con, con dê út cũng chạy theo phía sau dê mẹ tìm kiếm các anh trai.

Khi hai mẹ con tới được chỗ đồng cỏ thì dê mẹ trông thấy con sói đang phơi bụng nằm ngủ dưới gốc cây cổ thụ, nó ngủ ngáy đến mức làm rung cả những cành lá trên cây. Dê mẹ quan sát chăm chú khắp nơi trên người con chó sói, nhìn thấy bụng của nó căng phè, lại hình như động đậy và phập phồng nữa. Vì vậy dê mẹ liền nghĩ tới:

– Trời ạ! Không lẽ mấy đứa con của tôi đã bị con sói gian ác nuốt chửng cho bữa tối mà vẫn còn sống được sao?

Thấy có hy vọng, dê mẹ lập tức sai con dê út của mình chạy về nhà rồi đem kéo cùng kim chỉ tới. Nhân lúc chó sói ngủ say như chết, dê mẹ liền rạch bụng của nó ra, khi dê mẹ rạch chưa hết nhát kéo đầu tiên thì đã có một con dê con thò đầu ra ngoài. Dê mẹ tiếp tục rạch bụng chó sói và sáu con dê con cứ nối đuôi nhau mà nhảy ra bên ngoài, tất cả đều còn sống, cũng không có một chút xây xước nào. Bởi vì con chó sói quá háu ăn, khi bắt được đám dê con nó cứ thế nuốt chửng chứ chẳng kịp nhai cái nào. Điều này làm cho dê mẹ vô cùng mừng rỡ.

Cả đám dê con thấy mẹ thì mừng lắm, chúng vây quanh ôm hôn rồi vuốt ve mẹ của mình, cứ thế rồi lại nhảy tung tăng ăn mừng. Dê mẹ lại bảo với đàn con của mình:

– Cái gì đang lạo xạo lộn xộn mà chạy ở trong bụng của ta thế nhỉ? Ta tưởng trong đó là sáu con dê non chứ nhỉ? Sao bây giờ bụng ta lại chứa toàn những đá hòn thế này?

Khi nó khệ nệ vác được cái bụng của mình ra đến bờ xuống, nhưng khi vừa cúi xuống để uống nước thì đống đá trong bụng nặng đến mức kéo nó ngã luôn xuống suối. Bởi vì đá quá nặng nên nó chết đuối ngay, cũng không có cơ hội kêu một tiếng.

Lúc đó bảy con dê con trông thấy thì chạy tới và reo lên ầm ĩ:

– Con chó sói gian ác đã chết rồi! Con chó sói gian ác đã chết rồi!

Và chúng cùng với dê mẹ vui sướng nhảy múa khắp bên bờ suối.

Ngày xưa có 1 bà mẹ heo sinh được ba chú heo con. Ba chú heo hay ăn nên lớn rất nhanh, khi thấy những đứa con của mình cũng đã lớn, bà mẹ heo mới nói với 3 chú heo con rằng:

“Các con giờ cũng đã lớn cả rồi, không còn bé bỏng như ngày xưa nữa. Giờ cũng là lúc ta cho các con ra đi và các con phải tự xây cho mỗi đứa một căn nhà. Nhưng các con phải cẩn thận, đừng để gặp chó sói mà nó bắt ăn thịt”

Bác nông dân vui vẻ trả lời: “Cháu định làm một ngôi nhà bằng rơm thật sao cậu bé, được thôi ta cho cháu cả bó rơm này đó”.

Chú heo cả vui mừng lấy số rơm mà bác nông dân cho và dựng một ngôi nhà bằng rơm. Dựng xong chú nói: “Giờ ta đã có một ngôi nhà bằng rơm để ở, chó sói không bao giờ bắt được ta để ăn thịt nữa”

Chú heo thứ 2 nói: “Em sẽ tự mình làm một ngôi nhà chắc chắn hơn ngôi nhà bằng rơm của anh”

Chú heo út nói: “Em cũng vậy, ngôi nhà bằng rơm của anh rất mong manh, không thể chống lại được gió lớn, em cũng sẽ làm cho mình một ngôi nhà chắc chắn”

Chú heo thứ 2 và chú heo út tiếp tục lên đường còn chú heo cả thì ở lại với ngôi nhà bằng rơm vừa làm được. Đi được một đoạn đường thì 2 chú heo gặp một bác tiều phu đang vác trên mình một bó cành cây lớn.

Chú heo thứ 2 nói với bác tiều phu: “Bác tiều phu ơi, bác cho cháu bó cây này, cháu muốn làm cho mình một ngôi nhà bằng những cành cây trên”.

Bác tiều phu mỉm cười nói: “Được thôi cậu bé, bác cho cháu hết số cành cây này đó, nếu được cháu hãy thử dựng cho mình một ngôi nhà xem sao”.

Được bác tiều phu cho hết số cành cây, chú heo thứ 2 liền dựng cho mình một ngôi nhà bằng cành cây, dựng xong chú nói: “Ngôi nhà bằng cành cây này nhìn trông chắc chắn hơn ngôi nhà bằng rơm của anh cả rất nhiều, giờ thì không có con sói nào ăn thịt được ta nữa”.

Chú heo út nói: “Em sẽ dựng cho mình một ngôi nhà vững chãi hơn ngôi nhà bằng cành cây của anh”.

Chú heo thứ hai hài lòng với ngôi nhà chú vừa làm xong và ở lại đó, giờ chỉ còn Chú heo út tiếp tục một mình bước tiếp trên cuộc hành trình. Đi được một đoạn đường, chú heo út gặp một bác thợ xây, trên chiếc xe bác đang kéo có rất nhiều viên gạch đỏ.

Chú chào bác thợ xây và nói:

– Bác ơi, bác cho cháu số gạch kia của bác, cháu muốn tự mình xây cho cháu một ngôi nhà bằng gạch đỏ.

Bác thợ xây cười và nói:

– Dĩ nhiên là được chú bé, cháu hãy lấy cho mình số gạch cháu thích.

Có gạch, chú heo út phải mất khá lâu sau mới xây xong được ngôi nhà cho mình, nhưng không sao vì thành quả của chú là một ngôi nhà khá vững chãi và chắc chắn. Chú ta nói:

– Với ngôi nhà này, thì chó sói sẽ không thể nào có thể ăn thịt ta được.

Thế rồi một hôm, có một con chó sói xuất hiện. Nó bước tới ngôi nhà được làm bằng rơm mà chú heo cả đã cất công xây dựng. Khi nhìn thấy chó sói, chú heo cả chạy vội vào căn nhà rồi đóng sập cửa lại. Con sói nói:

– Mày nghĩ với ngôi nhà yếu ớt này mà có thể ngăn cản ta ăn thịt mày sao.

Nói xong con sói gầm gừ thổi một cái thật mạnh, chiếc nhà bằng rơm yếu ớt đổ sập. Chú heo cả đã bị con sói ăn thịt một cách dễ dàng.

Hôm sau, con sói vẫn đi dọc theo con đường đó. Nó gặp ngôi nhà được làm bằng những cành cây khô của chú heo thứ hai. Chú heo thứ hai nhìn thấy con sói hoảng sợ chạy vào nhà vội vàng đóng kín cửa.

Con sói lại nói:

– Mày thật ngu ngốc, với cái nhà bằng cành cây khô này ta thổi phát thì nó bay, mày nghĩ mày thoát được sao.

Nói xong con sói ra sức thổi thật mạnh, ngôi nhà không chống đỡ được đổ sụp xuống, chú heo kế bị con sói ăn thịt một cách rất dễ dàng.

Vẫn tiếp tục theo con đường đó, đến hôm sau thì nó gặp ngôi nhà bằng gạch của chú heo út. Chú heo út thấy con sói liền chạy thẳng vào nhà, chốt kín cửa. Con sói tiếp tục dọa dẫm:

– Mày không thoát được đâu, hai hôm trước tao đã thổi bay 2 ngôi nhà của hai con heo như mày và ăn thịt chúng nó. Giờ tao sẽ thổi bay nốt căn nhà của mày.

Nói xong con sói tiếp tục thổi dữ dội như hai lần trước, nhưng vì ngôi nhà được làm bằng gạch rất chắc chắn nên nó có cố sức thổi thì ngôi nhà vẫn vậy không hề đổ sập. Nó nghĩ: “Con heo này khá thông minh, để ăn thịt nó chắc chắn ta phải dùng phương pháp mềm mỏng”. Nó nói:

– Này chú heo con, sáu giờ sáng ngày mai, ta với chú sẽ đi đến trang trại của ông Smith, ở đó chúng ta sẽ lấy được những củ cải tươi ngon nhất để nấu cho chúng ta một bữa tối ngon lành.

“Oh! Vậy thì tốt quá, tôi rất thích”, chú heo con nói. Nhưng với trí thông minh của mình, chú heo út biết thừa rằng con sói chỉ lừa mình hòng muốn ăn thịt mình mà thôi.

Chính vì thế, sáng ngày hôm sau, 5h chú heo út đã đi tới trang trại của ông Smith, sau khi lấy cho mình rất nhiều củ cải ngon, chú quay trở về nhà trước lúc 6 giờ. Và đúng như con sói hôm qua đã nói, 6 giờ nó sang gõ cửa nhà chú heo con. Thấy tiếng gõ cửa, biết con sói đến chú nói:

Tôi đã đến trang trại của ông Smith và đã mang về cho mình một giỏ đầy củ cải thơm ngon để chuẩn bị cho bữa tối.

Con sói rất bực tức nhưng nó vẫn tỏ ra rất mềm mỏng:

– Vậy thì sáng mai, tôi sẽ cùng bạn đi tới vườn táo của nhà ông Brown, chúng ta sẽ xin ông những quả táo thật đỏ tươi.

– “Vậy à, thế thì tốt quá, tôi cũng rất thích ăn táo”, chú heo con nói.

Sáng hôm sau, chú heo con đã dậy sớm lúc 4 giờ để tới vườn táo ông Brown, trong lúc trèo lên cây đang hái táo, con sói từ đâu bỗng thình lình xuất hiện ngay dưới.

Chú heo út vô cùng sợ hãi, nhưng chú vẫn bình tĩnh giả vờ như không có gì nói với con sói:

Chú ném trái táo xuống, trái táo lăn tròn ra xa, con chó sói chạy theo nhặt lấy trái táo. Nhân cơ hội đó, chú heo tuột xuống khỏi cây, chạy một mạch thật nhanh về nhà và đóng cửa lại.

Con sói biết mình đã mắc mưu chú heo con, nó bực tức lắm nhưng nó vẫn cố tình ra vè bình thường. Nó đi tới nhà chú heo con và nói:

– Này heo con, nếu bạn thích đi hội chợ thì chiều nay 4 giờ tôi sẽ tới dẫn bạn đi, ở đó có rất nhiều trò chơi vui lắm như đánh đu, cưỡi ngựa xoay vòng.

“Oh, thế thì vui lắm nhỉ, tôi rất thích”, chú heo con nói.

Chú heo con trở về nhà, trên đường về nhìn từ xa chú thấy chó sói đang đi lên đồi. Chú hoảng quá nhảy vào trong thùng đựng bơ. Chiếc thùng lăn nhanh xuống dốc húc con sói ngã nhào ra đất. Con sói choáng váng không biết cái gì húc vào mình tưởng có cái gì nguy hiểm nên nó sợ quá chạy thục mạng

Xuống cuối dốc, chú heo con nhảy ra khỏi thùng bơ và vác nó trở về nhà.

Ngày hôm sau, chó sói lại tới gõ cửa nhà chú heo con. Nó nói:

“Ha Ha” heo con cười và nói:

– Là tôi húc đó, tôi nằm trong cái thùng đựng bơ.

Khi sói nghe thế vậy nó tức sôi máu, nó nói lớn:

– Được rồi, tao sẽ ăn thịt mày, tao sẽ leo lên chiếc ống khói và tụt xuống ăn thịt mi, hãy đợi đấy.

Con chó sói leo lên mái nhà, nó theo đường ống khói chui vào trong. Nhưng bên trong nó không ngờ rằng chú heo con đã nấu một nồi nướng sôi thật to chờ nó ở dưới. Con sói ngã mạnh vào nồi chết luôn.

Thế là đáng đời con sói! Còn chú heo út đã thoát nạn vì chú quá thông minh!

Xưa có một người đàn bà góa chồng có 2 cô con gái, một người là con đẻ còn một người chỉ là con chồng. Hai cô con gái thì tính nết và sắc đẹp hoàn toàn đối lập nhau, cô con nuôi thì chăm chỉ siêng năng, người lại rất xinh đẹp, cô con đẻ thì vừa xấu xí, vừa lười nhác. Bà mẹ thì cưng chiều cô con gái xấu xí hơn vì đó là con đẻ của bà ta. Do vậy, tất cả mọi việc trong nhà đều đến tay cô con nuôi, cô vì quá bận rộn với nhiều việc trong nhà nên lúc nào áo quần cũng lấm lét, chân tay mặt mũi thì nhọ nhem giống như cô Lọ Lem trong gia đình.

Hàng ngày cô bé đáng thương ấy phải ra ngồi ở con đường gần giếng kéo sợi, số lượng sợi cô phải kéo hàng ngày nhiều đến mức tay cô máu chảy rỉ ra. Có lần máu chảy ra sợi bông nhiều quá, để làm sạch sợi, cô cúi xuống giếng để rửa, không may cô tuột tay để rơi ống sợi xuống giếng. Cô khóc lóc và chạy về xin lỗi và kể lại chuyện không may mắn đó với bà dì ghẻ. Bà dì ghẻ nghe xong mắng cô xối xả thậm tệ, rồi nhẫn tâm bảo cô:

– Mày đánh rơi ống sợi xuống giếng thì mày phải xuống đó mà lấy nó lên!

Cô bé đành phải chạy ra giếng, cô không biết phải làm thế nào. Trong lúc tinh thần quá sợ hãi, cô đành phải liều mình nhảy xuống giếng để mò ống sợi. Cô ngất lịm đi, khi cô hồi tỉnh và mở mắt ra thì cô thấy mình đang nằm trên một cánh đồng cỏ rất đẹp, các bông hoa nở rực thi nhau đua sắc dưới ánh nắng vàng ươm của mặt trời. Cô đứng dậy bước đi trên đồng cỏ xanh mượt, cô đi băng qua đồng cỏ thì cô thấy một lò nướng bánh, trong lò đầy ắp bánh mì đã được nướng chín, bánh mình gọi cô:

– Cô gái xinh đẹp ơi, cô làm ơn hãy nhanh tay kéo chúng tôi ra! Hãy kéo chúng tôi ra kẻo chúng tôi sẽ bị cháy hết, chúng tôi đã được nướng chín hết cả rồi.

Cô gái tiến lại gần lò bánh, cô lấy chiếc xẻng gần lò lấy hết số bánh ra, sau đó cô lại đi tiếp. Trên đường đi cô gặp một cây táo sai trĩu quả, cây gọi cô:

– Cô gái ơi, cô hãy rung tôi đi, cô hãy rung để những trái táo rụng xuống, táo chúng tôi đã chín hết cả rồi.

Thấy táo nói vậy, cô bé dùng tay ôm vào thân cây và rung, cô rung cho đến khi trên cây không còn một trái táo nào. Sau đó cô xếp hết những trái táo chín ngọt mọng thành đống rồi lại bước tiếp.

Sau cùng cô bé tới một căn nhà nhỏ, cô gõ cửa, một bà cụ răng to kệch ghé đầu ra, nhìn thấy bà cô sợ hãi bỏ chạy. Bà cụ gọi cô bé lại rồi bảo:

Cô cháu gái! Đừng sợ, hãy ở đây với bà, cháu chỉ cần làm việc siêng năng chăm chỉ giúp bà, thì cháu sẽ có tất cả những gì cháu muốn. Cháu hãy dọn giường nằm của bà thật chu đáo, cháu nhớ rũ giường thật cẩn thận, mỗi khi có lông bay ra thì hạ giới mới có tuyết rơi. Bà chính là bà chúa tuyết đây cháu.

Nghe bà cụ nói giọng hết sức đầm ấm và gần gũi, cô bé bằng lòng ở lại cùng bà cụ. Hằng ngày, cô bé rất chăm chỉ dọn dẹp, cô làm theo đúng như lời bà dặn, rũ giường thật mạnh để có lông bay ra như là những bông tuyết trắng xóa. Thấy cô bé ngoan ngoãn chăm chỉ, bà dành cho cô bé một cuộc sống rất thoải mái và sung sướng, bà không khi nào nặng lời với cô bé, ngày nào cô bé cũng được ăn uống rất ngon lành. Ở với bà chúa tuyết được một thời gian, cô bé cảm thấy trong lòng mình tràn ngập nỗi buồn. Thời gian đầu, cô cũng không biết là tại sao mình buồn nữa nhưng về sau cô bé mới biết là do mình nhớ nhà. Mặc dù, ở với bà chúa tuyết, cô rất sung sướng và đầy đủ, công việc cũng không có gì là khó nhọc nhưng cô vẫn rất muốn được trở về nhà. Nỗi nhớ nhà càng ngày càng dâng cao, thế rồi một ngày cô thưa với bà chúa tuyết:

Thưa bà, cháu nhớ nhà quá, dù khi còn ở dưới hạ giới, cháu không có được một cuộc sống đầy đủ như ở nơi đây nhưng cháu cũng không thể ở lâu hơn được nữa, cháu muốn xin phép bà cho cháu được trở về nhà, về với những người thân thuộc của cháu.

Bà chúa tuyết nói với cô bé:

– Nếu cháu muốn về thì bà cũng vui lòng. Vì cháu đã làm việc rất chăm chỉ giúp bà, vậy để chính bà tiễn cháu về nhà.

Bà chúa tuyết cầm tay cô bé và dắt cô bé tới một chiếc cổng. Chiếc cổng mở ra, khi cô bé vừa bước chân lên thềm cổng thì bỗng có một trận mưa vàng rơi xuống phủ kín người cô bé.

Bà chúa tuyết nói:

– Đây chính là phần thưởng bà tặng cháu vì cháu rất ngoan ngoãn và chăm chỉ.

Rồi bà đưa cho cô bé ống sợ mà cô đã lỡ tay để tuột nó rơi xuống giếng.

Sau đó bà đóng cổng lại, cô bé trở lại trần gian và đứng cách nhà dì ghẻ không xa. Khi cô bước tới sân thì con gà trống đậu trên hàng rào gáy:

“Ki rơ ri ki

Gái vàng, gái bạc nhà ta đã về.”

Thấy cô bước vào nhà, trên người đầy vàng lấp lánh, hai mẹ con dì ghẻ niềm nở đón tiếp. Cô kể lại chuyện mình cho hai mẹ con dì ghẻ nghe, dì ghẻ nghe xong bày cách cho cô con gái xấu xí lười biếng của mình cũng được gặp bà chúa tuyết để có đầy vàng như vậy.

Cô ta cũng ra cạnh bờ giếng để guồng sợi, tự mình lấy kim chọc vào đầu ngón tay, khua cả bàn tay vào bụi gai để ống sợi đỏ thẫm máu. Sau đó cô ta vứt ống sợi xuống giếng và lao mình xuống dưới. Đúng như lời người chị kể, đầu tiên cô ta cũng gặp một cánh đồng cỏ đẹp đẽ, cô ta tiếp tục bước theo con đường mòn.

Khi cô ả tới lò bánh mì, bánh mì kêu lên:

– Cô gái ơi, hãy kéo chúng tôi ra, kẻo chúng tôi cháy mất, tất cả chúng tôi đã được nướng chín xong rồi.

Cô ả với bản tính lười biếng nên nói rảo một câu:

– Kệ chúng mày, tao không rảnh mà làm việc đấy, bẩn quần áo tao.

Tiếp tục cô ta vẫn đi thẳng, và như người chị cô ta lại gặp một cây táo. Táo nói:

– Này cô bé, hãy rung tôi đi, chúng tôi chín hết cả rồi.

Cô ả đáp lại:

– Mày chín thì kệ mày, tao rung để táo rơi vào đầu tao à.

Xong cô ta tiếp tục đi.

Cuối cùng đúng như lời người chị kể, cô ta cũng tới nhà bà chúa tuyết. Do biết được trước hình dáng của bà nên cô ta không hề tỏ ra sợ hãi, cô ả nhận lời ở lại giúp việc cho bà ngay, đúng như ý định cô ta đang mưu tính.

Ngày đầu tiên, cô ta cũng tỏ ra làm việc rất chăm chỉ, vì động lực là số vàng sẽ được tặng. Nhưng tới ngày thứ hai, bản chất lười biếng đã bắt đầu dần hiện, sang tới ngày thứ 3 thì nó đã hiện hẳn. Cô ả không thèm dậy sớm, không dọn giường cho bà, không rũ giường để lông bay ra. Những công việc này đáng nhẽ cô phải làm hàng ngày vì đã nhận lời giúp bà.

Dần dần bà chúa tuyết cũng cảm thấy chán nản, rồi cho cô trở về trần gian. Cô ả mừng thầm vì nghĩ lúc trở về vàng sẽ dính đầy người cho xem. Bà chúa tuyết dẫn cô tới chiếc cổng, nhưng khi vừa bước lên thềm, cô ả không thấy trận mưa vàng nào cả, chỉ thấy một trận mưa nhựa thông ập xuống khắp người. Bà chúa tuyết nói:

Đây là phần thưởng cho sự lười biếng và gian xảo của con

Sau đó bà đóng cổng lại

Khi cô ả tới nhà, trên người phủ đầy nhựa thông, con gà trống đứng trên bờ rào thấy cô ả cất tiếng gáy:

“Ki kơ ri ki,

Gái dơ, gái bẩn nhà ta trở về.”

Kể từ khi ấy, nhựa thông dính chặt trên người cô ta suốt đời, không có cách nào gỡ ra được.

Ngày xưa, có hai mươi lăm anh lính chì, họ là anh em ruột, vì họ được đúc ra từ một cái muỗng chì cũ. Họ mang trên vai mỗi người một cây súng trường, mặc bộ quân phục xanh nẹp đỏ rất oai vệ, và đứng trong tư thế nghiêm, mắt nhìn thẳng phía trước. Tiếng nói mà các anh lính chì nghe lần đầu tiên trong đời, là khi chiếc hộp được khui ra, một em bé nhìn thấy các anh, đã vỗ tay reo lên thích thú: “Các chú lính oai quá!” Hôm đó là ngày kỷ niệm sinh nhật của em, và em được tặng các anh lính chì.

Em bé chẳng mất nhiều thì giờ để sắp các anh lính chì lên bàn mình. Hai mươi lăm anh trông hoàn toàn giống nhau, trừ một anh chàng chỉ có một chân. Số là, anh này ra đời sau cùng, người thợ không đủ chì để cho anh có cả hai chân, đành vậy! Tuy thế, anh lính cụt vẫn đứng nghiêm chỉnh trên một chân của mình như các anh kia, và cũng do thế mà anh ta sau này trở nên nổi tiếng hơn.

Trên chiếc bàn mà các anh vừa được đặt lên, có cơ man nào là đồ chơi đẹp mắt; nhưng vật làm các anh chú ý nhất là tòa lâu đài bằng giấy cạc tông rất huy hoàng và tỉ mỉ. Bạn có thể nhìn qua những khung cửa sổ bé xíu để thấy bên trong. Bên ngoài là hàng cây nhỏ bao quanh một miếng kính soi giả làm hồ nước, mặt hồ phản chiếu hình những con thiên nga bằng sáp đang bơi lội trên đó. Nhìn chung, cảnh trí rất nên thơ, nhưng vật xinh xắn nhất là một cô bé đứng ở cửa toà lâu đài. Cô bé cũng được cắt bằng giấy bìa, cô mặc bộ váy bằng voan mỏng, có sợi đăng ten màu xanh quanh vai áo. Cô đứng xoè hai tay ra trong một tư thế đang múa ba lê. Cô là một nữ vũ công mà một chân cô giơ cao lên khuất phía sau làm anh lính chì tưởng cô cũng bị cụt chân như mình.

“Phải chi ta lấy được cô bé này làm vợ.” Anh nghĩ, “Nhưng cô ta trông sang trọng quá; cô ở trong tòa lâu đài, còn ta chỉ có chiếc hộp mà chen chúc những hai mươi lăm anh em. Ta chẳng có chỗ xứng đánh cho nàng; nhưng được thôi, ta sẽ làm cho nàng dần thích nghi.” Anh dựa người ra trên một chiếc hộp khác, thoải mái nhìn ngắm cô nàng kỹ hơn, trong khi cô vẫn cứ múa trên một chân mà vẫn giữ thăng bằng.

Ðến tối, cậu bé cất các anh lính vào hộp đậy lại, để sót anh lính cụt chân; cả nhà đi ngủ. Bây giờ mới là lúc các đồ chơi sống lại và cùng nhau vui đùa; chúng thăm viếng trò chuyện với nhau, đám này thì chơi banh, đám kia thì vật lộn, ôi thôi đủ thứ vui náo nhiệt. Từ trong hộp, các anh lính chì nghe tiếng ồn ào, đâm ra nào nức tìm cách chui ra, nhưng họ không làm sao mở được nắp hộp. Trên bàn, mọi vật đang nhảy múa, nhào lộn, ngoài hai nhân vật vẫn cứ đứng yên lặng từ trước đến giờ, đó là cô vũ nữ và anh lính chì cụt chân bị cậu bé bỏ quên. Cô nàng vẫn ở trong tư thế múa ba lê, với một chân nhón lên và một chân khác hắt về phía sau; anh lính chì cũng đứng trên một chân đăm đăm nhìn cô nàng một cách say mê.

Thình lình, chuông đồng hồ gõ mười hai tiếng, báo hiệu nửa đêm. Pốp! một tiếng động vang lên. Một chiếc hộp bật mở ra, lò xo bung lên, hiện ra một chú quỷ đen nhỏ xíu.

“A! Tên lính chì! Mi để mắt mũi đâu mà không né ta ra hử?” Tên quỷ hách dịch hỏi.

Anh lính giả ngơ không thèm trả lời.

“A! Tay này ngon nhỉ! Ðể sáng mai mày biết sẽ biết tay ta.” Con quỷ dọa.

Ðến sáng hôm sau, cậu bé thức dậy lật đật lôi các anh lính chì ra sắp trên thành cửa sổ. Chẳng biết có phải do lời nguyền rủa của con quỷ đen tối qua, hay vì một ngọn gió vô tình, cửa sổ bật mở, anh lính chì cụt chân rơi xuống đất từ căn phòng ở trên tầng lầu ba.

Thật là khủng khiếp cho anh, anh chúi đầu xuống đất, may có chiếc nón lính đỡ cho anh khỏi vỡ sọ, cái chân độc nhất chỉa thẳng lên trời. Cậu bé và tên tớ trai chạy xuống lầu tìm anh, nhưng chúng không trông thấy được, vì anh bị kẹt giữa hai phiến đá lót đường. Phải chi anh chịu khó lên tiếng, may ra cậu bé đã cứu được; nhưng anh lính này tôn trọng kỷ luật nhà binh, không thể la lên khi đang ở trong tư thế nghiêm chỉnh.

Trời bổng đổ mưa, càng lúc mưa càng lớn hạt. Nước chảy thành dòng dọc theo ven đường. Khi mưa tạnh, có hai cậu học trò tình cờ đi qua đó.

“Ê! coi kìa! Có một anh lính chì! Ðể ta nhặt lên chơi.” Chúng xé giấy tập, xếp thành một con thuyền và đặt anh lính chì vào đó, xong thả cho trôi theo dòng nước. Chúng vừa chạy theo vừa vỗ tay khoái trí.

Trời đất thiên địa ơi, sóng gió chi mà dữ thế. Mưa thì cứ lai rai từng chập. Con thuyền tròng trành muốn lật nhiều lần, và có lúc xoay tròn quanh xoáy nước. Anh lính chì sợ chết điếng, nhưng vẫn phải tỏ ra dũng cảm; anh không hề biểu lộ ra mặt mà vẫn chững chạc đứng với cây súng trường trên vai như đang thi hành lệnh gác. Chiếc thuyền giấy bỗng chui vào một con đường hầm tăm tối, có lẽ cũng tối như trong chiếc hộp của anh.

“Ta đang ở đâu thế này?” Anh nghĩ. “Chắc là con quỷ đen nó ám hại mình! Phải chi có cô nàng ở với ta trên chiếc thuyền này thì dù có chui xuống địa ngục ta cũng cam lòng.”

Một con chuột cống từ đâu chui đến.

“Ðưa coi giấy thông hành? Có không thì bảo?”

Anh lính im lặng, nắm chặt báng súng; thuyền cứ trôi, con chuột chạy theo sát phía sau, nó nghiến răng tru lên: “Chận nó lại, chận lại, tên gián điệp không có giấy thông hành, nó lại chẳng biết mật khẩu.”

Giòng nước trôi nhanh hơn đẩy thuyền đi xa, anh lính đã thấy ánh sáng ở cuối đường hầm, nhưng cùng lúc anh nghe những tiếng gầm vang dội, tiếng gầm khủng khiếp đủ cho những kẻ bạo gan nhất cũng phải rùng mình. Bạn thử tưởng tượng coi! Nơi cuối hầm, dòng nước thông ra một cái vịnh lớn, nước ở đây tuôn ra như một cái thác, ai mà chịu đựng nổi bị phóng nhào xuống với một tốc độ khủng khiếp thế.

Anh lính chì lo sợ nhìn miệng cống càng lúc càng gần mà không sao dừng thuyền lại được. Chiếc thuyền nhào xuống thác nước; anh lính cố hết sức mình đứng thật vững chờ việc gì tới sẽ tới.

Thuyền quay đi mấy vòng rồi rơi tõm xuống, nước tràn ngập khoang thuyền kéo nó chìm dần xuống đáy vực. Anh lính đứng bất lực nhìn nước ngập dần từ chân cho đến cổ. Cuối cùng nước tràn qua đầu anh. Trong phút cuối cùng đó, anh nghĩ đến cô vũ nữ xinh đẹp mà anh không bao giờ còn gặp lại, bên tai anh như có tiếng hát một khúc quân hành,

Ngày bao hùng binh tiến lên….

Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến…

Thuyền chìm hẳn, và anh lính chì đáng thương đang chơi vơi giữa màn nước thì một chú cá bơi đến, đớp trọn anh vào bụng.

Trong bụng cá tối ơi là tối, vả lại nó chật quá, chẳng cọ quậy gì được. Anh lính chì vẫn nghiêm trang giữ đúng tư thế người lính gác. Hồi lâu, anh cảm thấy như con cá quẫy mạnh mấy cái rồi bất động, mắt anh bỗng loá lên vì một tia sáng rọi vào. Lần nữa, anh lính thấy lại ánh sáng mặt trời, anh nghe có tiếng nói: “Một anh lính chì!”

Hoá ra chú cá bị sa lưới, bắt mang ra chợ bán. Một chị sen mua cá, đem về làm thịt, vừa mổ bụng ra thì bắt gặp anh lính của chúng ta. Chị ta móc anh chàng ra, đem khoe với mọi người và kể chuyện về cuộc phiêu lưu kỳ thú của anh lính kết thúc trong bao tử con cá. Anh lính thì chẳng thấy vui và hãnh diện chút nào. Chị sen đem anh đặt lên bàn. Lạ thay, anh lính thấy lại cảnh vật cũ, cũng em bé chủ nhân của anh ngày nào, cũng những thứ đồ chơi xinh xắn và nhất là cô vũ nữ còn đứng múa một cách duyên dáng bên cổng tòa lâu đài bằng giấy bìa các tông.

Nàng vẫn đứng trên một bàn chân, hai cánh tay xòe ra, chân kia duỗi thẳng phía sau. Anh lính nhìn nàng và thấy đôi mắt nàng cũng nhìn lại mình, nhưng họ không nói với nhau một lời. Bỗng dưng, một đứa bé bạn cậu chủ nhà chụp lấy anh lính chì, không thèm giải thích lấy nửa lời, quẳng anh vào trong lò sưởi đang cháy rực. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính tên quỷ lùn đã buông lời nguyền độc địa cho anh. Anh lính đứng giữa ngọn lửa, cháy sáng lên, anh thấy nóng bừng bừng. Anh chẳng phân định được là cái nóng của bếp lửa hay là nhiệt huyết trong tâm hồn anh. Màu da anh từ từ đổi từ xám sang đỏ hồng; anh vẫn đứng nhìn về cô vũ nữ và thấy cô nhìn anh. Sức nóng làm anh chảy tan ra thành chất chì lỏng nhưng anh vẫn cố giữ thân mình đứng thẳng băng, tay nắm chắc báng súng.

Cửa chợt mở, một cơn gió thổi tung cô vũ nữ vào đống lửa, áo quần cô bắt cháy và cả cô nữa, cô cũng cháy tiêu ra tro, bên cạnh anh lính chì dũng cảm.

Sáng sau, người tớ gái quét lò sưởi, tìm thấy một cục chì có hình dạng một trái tim nhỏ xíu nằm giữa đám tro tàn của cô vũ nữ.

Xưa thật xưa, trên hòn đảo nọ có rất nhiều động vật, chim chóc sinh sống, trong đó có gia đình nhà Thỏ Hồng. Khi Thỏ Hồng đến tuổi đi học, mẹ sắm cho Thỏ Hồng một chiếc cặp màu vàng thật xinh. Mỗi ngày, Thỏ Hồng phải băng qua một con suối nhỏ để đến trường. Thỏ Hồng rất xinh xắn, nhưng lại không hòa đồng chút nào. Nó tự đặt ra quy định là chỉ những bạn có cặp đẹp mới được chơi chung với nó. Cả lớp chỉ có Nhím Bông và Mèo Vàng có cặp đẹp nên được kết bạn với Thỏ Hồng.

Sau kỳ nghỉ hè, lớp học của Thỏ Hồng có thêm bạn Khỉ Nâu. Vui tính và nhiệt tình, Khỉ Nâu nhanh chóng kết bạn với mọi người. Mấy lần thấy nhóm Thỏ Hồng chơi đùa, Khỉ Nâu mon men đến xin chơi cùng, nhưng đáp lại chỉ là những cái lắc đầu:

Trông bạn xấu xí quá, lại không có cặp đẹp nữa. Bọn mình không thích chơi với bạn đâu.

Khỉ Nâu nghe vậy buồn lắm.

Một hôm, Thỏ Hồng tạm biệt hai cô bạn của mình là Nhím Bông và Mèo Vàng rồi ra về. Đi đến chiếc cầu gỗ bắc vào làng Thỏ Hồng mới phát hiện chiếc cầu đã bị cuốn trôi đi mất. Thỏ Hồng bèn chạy đi tìm Nhím nhờ giúp đỡ, Nhím bảo:

Tớ yếu lắm, chẳng giúp gì được cậu đâu.

Thỏ chạy sang nhà Mèo Vàng cũng bị từ chối:

Tớ chẳng biết giúp cậu thế nào.

Buồn bã và thất vọng, Thỏ Hồng đi ra bờ suối ngồi khóc. Đúng lúc ấy, Khỉ Nâu đi đến thấy vậy liền hỏi:

Có chuyện gì vậy, sao bạn ngồi đây khóc?

Thỏ Hồng vội kể cho Khỉ Nâu sự việc, nhưng không hy vọng là Khỉ Nâu sẽ giúp mình. Nào ngờ, Khỉ Nâu đăm chiêu một lúc rồi bảo:

Mình có cách này. Mình sẽ cõng bạn trèo lên cây, chuyền về phía đầu con suối. Ở đó một cây đa rất to, chúng ta sẽ men theo nhánh cây để qua bờ bên kia.

Thỏ Hồng gật đầu ngay lập tức. Hai người bạn nhanh chóng làm theo cách Khỉ Nâu bày để qua suối.

Khi đến bờ bên kia, Thỏ Hồng áy náy nói với Khỉ Nâu:

Khỉ Nâu xoa xoa đầu rồi vui vẻ đồng ý. Hai người bạn nắm tay nhau ra về và từ đó luôn khắng khít thân thiết.

Ngày xưa có một cô bé sống cùng mẹ trong một túp lều tranh dột nát nhưng đó là một bé gái vô cùng hiếu thảo.

Ngày xưa có một cô bé sống cùng mẹ trong một túp lều tranh dột nát nhưng đó là một bé gái vô cùng hiếu thảo. Thật không may mẹ của cô bé lại bị bệnh rất nặng nhưng vì nhà nghèo nên ko có tiền mua thuốc chữa, và cô bé vô cùng buồn bã.

Một lần đang ngồi khóc bên đường bỗng có một ông lão đi qua thấy lạ bèn đừng lại hỏi khi biết sự tình ông già nói với cô bé :

– Cháu hãy vào rừng và đến bên gốc cây cổ thụ to nhất trong rừng hái lây một bông hoa duy nhất trên đó. Bông hoa ấy có bao nhiêu cánh thì tức là mẹ cháu sống được bằng đấy ngày.

Cô bé liền vào rừng và rất lâu sau mới tìm thấy bông hoa trắng đó. Phải khó khăn lắm cô mới trèo lên được để lấy bông hoa, nhưng khi đếm chỉ có một cánh hai cánh ba cánh bốn cánh. Chỉ có bốn cánh hoa là sao chứ? Chẳng nhẽ mẹ cô chỉ sống được bàng đấy ngày thôi sao? Không đành lòng cô liền dùng tay xé nhẹ dần từng cánh hoa lớn thành những cánh hoa nhỏ và bông hoa cũng theo đó mà nhiều cánh dần lên nhiều đến mức không còn đếm được nữa. Từ đó người đời gọi bông hoa ấy là bông hoa cúc trắng để nói về lòng hiếu thảo của cô bé đó dành cho mẹ mình.

Chim công và họa mi

Hôm ấy là một buổi sáng đẹp trời sau vài ngày mưa dầm dề. Nắng đùa nghịch trên những tàng cây và gió lao xao mơn man cành lá. Chim công cảm thấy vô cùng hứng khởi nên bước ra thảm lá nhảy một bài thật đẹp. Mấy bạn sóc, thỏ, hươu nai… đều tấm tắc khen.

Phấn khích quá, chim công liền cất giọng hát, mắt nhắm nghiền khi giai điệu lên tới đoạn cao trào. Chợt chim công nghe có tiếng ho húng hắng, mở mắt ra thì nhìn thấy bác gấu. Bác bảo:

– Ta đang ngủ mà cháu làm ta giật mình tỉnh giấc. Ta nghĩ là cháu chỉ nên nhảy múa thôi chim công ạ!

Sóc chui vào hang từ khi công bắt đầu hát giờ mới ló đầu ra nói:

– Ừ, mình cũng chỉ thích nhìn cậu nhảy múa thôi, chứ hát thì phải có giọng như họa mi ấy. Yên nào, hình như bạn ấy đang hát kìa.

Quả là chim họa mi vừa cất giọng hát. Tiếng hát véo von, lay động, muông thú đều lắng nghe.

Sau khi yên lặng thưởng thức hết bài hát tuyệt vời của họa mi, cả bác gấu, sóc và các loài vật khác cùng vỗ tay. Bỗng nhiên, chim công rấm rứt khóc:

– Sao mà họa mi có giọng hát hay như thế khiến ai nấy đều ngưỡng mộ, còn giọng hát của tôi sao lại khủng khiếp đến mức ai cũng không muốn nghe. Ôi, tôi thật bất hạnh!

Vừa khi ấy, chúa tể của muôn loài xuất hiện, ngài hỏi chim công:

– Chim công này, họa mi có nhảy múa đẹp như con không?

Chim công đáp:

– Dạ không ạ!

Chúa tể mỉm cười:

Ngày xửa ngày xưa, Mặt Trăng, Mặt Trời và Gà Trống cùng sống với nhau trên trời. Mặt Trăng mặc cái áo màu trắng, Gà Trống đội một chiếc mũ màu đỏ. Mặt Trăng thích cái mũ đỏ của Gà Trống lắm. Một hôm, Mặt Trăng nói với Gà Trống:

Gà Trống đáp:

– Tớ không thích cái áo màu trắng của cậu. Tớ không đổi mũ lấy áo đâu!

Mặt Trăng cứ gạ đổi mãi nhưng Gà Trống nhất định không chịu. Mặt Trăng liền giật mũ của Gà Trống và vứt xuống đất. Gà Trống vội bay xuống đất để nhặt mũ. Nhưng Mặt Đất tối đen nên Gà Trống không tìm thấy mũ. Gà Trống sực nhớ tới Mặt Trời, Gà Trống liền ngửa cổ lên trời và cất tiếng gọi:

– Ò ó o, Mặt Trời ơi! Mặt Trời ơi!

Mặt Trời vội vén màn mây nhìn xuống dưới đất. Những tia nắng rực rỡ tỏa sáng khắp nơi. Nhờ có ánh nắng Mặt Trời chiếu xuống, Gà Trống nhìn thấy cái mũ đỏ của mình mắc trên một cành cây. Gà Trống sung sướng bay lên cây để lấy chiếc mũ và đội lên đầu.

Gà Trống định bay về trời nhưng vì quá mệt nên không đủ sức cất cánh bay lên nữa. Gà Trống cất tiếng gọi:

– Mặt Trời ơi! Kéo tớ lên với!

Nhưng Mặt Trời không thể kéo Gà Trống lên được. Mặt Trời đành an ủi Gà Trống:

Từ đó trở đi, Gà Trống luôn dậy sớm và cất tiếng gáy “ò ó o” để đánh thức Mặt Trời dậy. Ở tít trên cao, Mặt Trời chiếu ánh sáng rực rỡ xuống Trái Đất và tạo nên ngày.

Còn Mặt Trăng thì cảm thấy rất xấu hổ vì đã đối xử không tốt với bạn Gà Trống. Vì thế, Mặt Trăng cứ đợi đến khi Mặt Trời lặn xuống phía bên kia rặng núi, Gà Trống lên chuồng đi ngủ mới dám xuất hiện. Người ta gọi lúc Mặt Trăng chỉ tỏa ánh sáng mờ mờ là đêm.

Hôm đó trời đẹp, Vịt con ra sông chơi. Theo thói quen, nó cởi quần áo ra bỏ lung tung trên bờ mà không để cho gọn gàng, rồi nhảy ùm xuống nước bơi thỏa thích. Vì vứt khắp nơi nên lát sau quần áo bị nước cuốn trôi đi hết cả mà vịt con chẳng hề hay biết.

Bơi thật vui xong vịt con lên bờ thì không thấy quần áo đâu nữa. Làm sao về nhà được bây giờ, vịt con òa lên khóc. Nhìn xung quanh, vịt con thấy có mấy chiếc lá sen to, nó bèn nghĩ ra cách ngắt lá sen che đỡ lên người để về nhà.

Vịt con vừa ôm lá sen trước ngực vừa chạy về nhà. Chạy ngang bãi cỏ thì Thỏ nhìn thấy, nó phá lên cười.

– Lêu lêu xấu hổ, để hở cả mông mà chạy long nhong.

Nghe Thỏ hát như thế, biết là Thỏ trêu mình, vịt con xấu hổ đến đỏ cả mặt. Nó bèn đi thật nhanh hơn để Thỏ không nhìn thấy mình nữa.

Đi ngang khu rừng, Khỉ ngồi trên cây trông thấy vịt con, nó cũng ôm bụng cười lăn lộn.

– Trời đất, vịt con không mặc đồ, gió thổi lá sen bay lòi cả mông kìa. Ha ha!

Vịt con xấu hổ quá khóc to lên. Nó chạy thật nhanh cuối cùng cũng về được đến nhà. Gặp mẹ, vịt con tức tưởi kể cho mẹ nghe mọi chuyện. Mẹ Vịt tuy tội nghiệp nhưng cũng không nhịn được cười.

Vịt con vâng ạ rõ to.

Dưới giàn hoa tường vi rực rỡ là nơi ở của rất nhiều loài bướm. Ở đó có ba chú bướm nhỏ là bướm vàng, bướm trắng và bướm hồng. Ba chú là anh em họ của nhau, lúc nào cũng yêu thương, khăng khít. Bất kể nơi nào có bướm vàng thì người ta cũng thấy có mặt hai chú bướm còn lại. Bố mẹ của cả ba rất yên tâm.

Một hôm, cả ba anh em đang nô đùa trên các khóm hoa thì trời bất ngờ đổ mưa. Thấy ở gần đó có một bông hoa Lily màu hồng thật to, ba chú bướm bay đến nhờ giúp đỡ:

– Ôi, cô là hoa Lily hồng. Cô chỉ cho bướm hồng trú thôi.

Bướm hồng nghĩ đến chuyện hai người anh em trắng và vàng của mình không có nơi trú ngụ liền từ chối ngay, bay đi nơi khác.

Được một quãng ngắn, cả ba nhìn thấy một bông hoa tulip vàng rực rỡ, bèn ngỏ lời nhờ giúp đỡ:

– Chúng cháu chào bác tulip. Bác có thể cho ba anh em cháu trú một lát cho đôi cánh khô lại sẽ bay đi ngay không ạ? Hoa tulip từ chối ngay:

Bướm trắng và bướm hồng đẩy bướm vàng vào bông hoa nhưng nó lắc đầu không chịu. Nó quyết tâm không bỏ rơi anh em.

Ba chú bướm lại tiếp tục bay đi tìm nơi trú mưa. Lần này thì cả ba chú trông thấy một bông hồng trắng muốt. Cả bọn lại lên tiếng nhờ giúp đỡ, nhưng cô hồng trắng cũng không thể giúp vì cánh hoa của cô quá bé. Thế là cả ba chú bướm đành phải nép vào nhau đứng dưới trời mưa to.

Bác mặt trời nấp sau đám mây đã chứng kiến toàn bộ câu chuyện. Cảm động trước sự gắn bó của ba chú bướm nên bác cố vén màn mây để chiếu những tia nắng ấm áp vào chỗ bọn trẻ. Chẳng mấy chốc, mưa tạnh và cánh bướm đã được hong khô.

Chuyện kể rằng có một cậu bé con trai người tiều phu, nhà ở gần khu rừng già. Một ngày nọ, nhà hết củi đun, mẹ bảo cậu vào rừng nhặt ít củi về cho mẹ. Cậu bé định vào rừng một lát sẽ về ngay nên không mang theo nước uống hay thức ăn gì cả. Cậu chỉ xách theo một sợi dây thừng để buộc bó củi rồi vội vã đi vào rừng.

Cậu bé nghĩ là trong rừng lúc nào cũng có sẵn nhiều cành khô, nhưng không ngờ thời gian ấy cành khô lại rất khó tìm. Cậu đi cả buổi sáng mà chỉ nhặt được một ít củi. Cậu tiếp tục đi sâu vào rừng. Được một quãng, cậu thấy một người đàn ông có vẻ rất đói đang ngồi dưới gốc cây. Do không mang theo thức ăn nên cậu không có cách nào giúp được người đàn ông nọ. Dù ái ngại, cậu đành đi tiếp.

Được một quãng nữa, cậu thấy một chú hươu đứng liếm mép liên tục tỏ vẻ rất khát nước. Cậu bé cũng không có nước mang theo bên mình nên không thể giúp được gì cho chú nai bé nhỏ. Cậu bé lại tiếp tục đi nhặt củi, trong lòng cảm thấy vô cùng áy náy. Cậu nghĩ mãi không biết phải giúp người đàn ông nọ và chú hươu như thế nào.

Cậu ôm bó củi đang ngày một to dần lên vai. Đang đi, cậu bé nhìn thấy một người đang cắm trại trong rừng. Anh ta loay hoay nhóm bếp mà mãi không được vì củi bị ướt. Cậu bé thấy vậy liền chạy lại cho người đàn ông một ít củi khô. Sau đó, cậu bé lễ phép xin anh ta một ít nước uống và thức ăn. Sau khi nhận được phần thức ăn và nước uống, cậu nhanh chóng quay trở lại đường cũ tìm gặp người đàn ông và chú nai con để giúp họ.

Do nôn nóng nên cậu bé bị vấp té, đầu gối bị trầy xước hết. Người đàn ông thấy vậy vội đỡ cậu bé ngồi xuống và xoa bóp chỗ đau cho cậu. Chú hươu có vẻ rất hiểu chuyện liền chạy đi hái một ít lá thuốc đắp vào vết thương cho cậu bé. Cả ba người và vật đều cảm thấy vui vẻ vô cùng vì mình đã giúp đỡ được người khác.

Xưa thật là xưa, có bốn nàng tiên làm nữ hoàng của các mùa: Xuân, Hạ, Thu và Đông. Mỗi nàng có một cung điện lộng lẫy trên một ngọn núi cao. Chỉ khi đến mùa, các nàng mới xuất hiện. Năm ấy, không hiểu sao mùa Đông kéo dài lê thê. Cây cối và các con thú run rẩy vì lạnh. Ai cũng mong chờ, lo lắng không hiểu vì sao nàng tiên mùa Xuân trễ hẹn như vậy.

Vì thế, các con vật mở cuộc họp chọn người đi đón nàng tiên mùa Xuân và tìm hiểu nguyên do. Sư tử tự nhận mình khỏe mạnh, dũng cảm nhất nên giành quyền đi đón nàng tiên mùa Xuân. Nó hăm hở lên đường. Ngày đầu tiên, cậy sức khỏe tốt nên sư tử đi từ sáng đến tối. Càng về sau sư tử đuối sức dần, rồi không đi tiếp được bèn quay về.

Thấy sư tử bỏ cuộc, công điệu đà lên tiếng chế giễu. Nếu muốn nàng tiên mùa Xuân xuất hiện thì sứ giả phải là con vật xinh đẹp và lộng lẫy như họ nhà công. Các con vật đồng ý cử chim công đi thực hiện nhiệm vụ. Chim công lên đường cùng đoàn tùy tùng, mang theo nhiều quà và hoa đẹp… Thế nhưng, đường sá xa xôi, vất vả, cả đoàn dần mệt mỏi rồi bị ốm, hoa và quà tặng phải vứt lại trên đường. Cuối cùng, chim công đành quay về.

Đến lúc này, muông thú đã sốt ruột lắm rồi. Nếu còn chần chừ sẽ trễ mất mùa Xuân tuyệt vời. Ngay lúc ấy, chim én ngập ngừng:

– Cháu tuy kém cỏi nhưng cũng xin góp sức để mang mùa Xuân về. Mùa Đông năm nay dài quá, mẹ cháu bị ho ngày một nặng. Nếu không có ánh nắng mùa Xuân, e rằng mẹ cháu không qua khỏi. Cháu sẽ đi tìm mùa xuân. Nghe vậy, muôn loài đồng ý.

Dù đang ốm nhưng hay tin con đi, chim mẹ lén con vặt những chiếc lông dày nhất của mình làm áo chống rét cho con. Chim én lên đường, nó bay mãi cuối cùng cũng đến cung điện của nàng tiên mùa Xuân. Trước cửa cung điện, chim én thấy một chú chim vàng óng bị ngất. Nghĩ chú chim bị lạnh, chim én cởi chiếc áo ấm choàng cho bạn. Chú chim bỗng biến mất và nàng tiên mùa Xuân xuất hiện:

– Con là một cô bé hiếu thảo, nhân hậu và dũng cảm. Năm nay ta chậm đến nhân gian là vì các con vật không ngoan. Chúng không biết yêu thương và giúp đỡ nhau. Nhờ có con ta biết rằng điều tốt đẹp vẫn còn hiện hữu. Ta sẽ chọn con làm sứ giả cho ta.

Từ đó, mỗi khi thấy chim én bay liệng trên trời, muôn loài sẽ biết rằng nàng tiên mùa Xuân đang sắp về với nhân gian.

Bài học cho bé: Trong cuộc sống, phải biết quan tâm chia sẻ cùng với mọi người, không nên sống ích kỷ.

Ngày xửa ngày xưa, có một con cú già sống trên một cây sồi to. Mỗi ngày, nó đều phóng tầm mắt ra thật xa để quan sát những điều xảy ra xung quanh mình. Có khi nó nhìn thấy một cậu bé đang giúp ông lão xách một cái túi to, có khi nó nhìn thấy một cô con gái đang cằn nhằn mẹ mình. Ngày qua ngày, con cú nhìn thấy được rất nhiều thứ nhưng nó vẫn giữ im lặng về những điều mà mình thấy.

Từ từ, con cú già bắt đầu nói ít hơn và thính giác của nó dần trở nên tốt hơn. Bây giờ nó có thể nghe rõ những cuộc nói chuyện của mọi người. Một ngày, con cú già nghe thấy một người phụ nữ nói với ai đó rằng có một con voi nhảy qua hàng rào. Một ngày khác, con cú lại nghe thấy một người đàn ông nói với ai đó rằng mình là con người hoàn hảo và chưa bao giờ mắc phải sai lầm gì.

Mỗi ngày trôi qua, con cú già lại nói ít hơn và nghe nhiều hơn. Nhờ vậy, nó biết được tất cả mọi thứ xảy ra xung quanh, dù không có ở đó. Dần dần, con cú già trở nên khôn ngoan hơn và nổi tiếng vì sự khôn ngoan ấy.

Ý nghĩa của câu chuyện: Nói ít, quan sát và lắng nghe nhiều sẽ giúp con trở nên thông minh và khôn ngoan hơn.

Ngày xửa ngày xưa, có một con cừu đen sống trong một ngôi nhà nhỏ. Cứ đến mùa xuân, con cừu đen lại tự cạo sạch lông của mình và đem ra chợ bán cho những người muốn làm quần áo ấm.

Một năm nọ, con cừu đen nhận thấy rằng dường như không ai còn chuộng lông cừu đen nữa. Do đó, số lông cừu mà nó còn lại khá nhiều. Dù vậy, nó không muốn lãng phí số lông này nên đã quyết tâm bán tiếp. Hôm đó, chẳng có ai muốn mua lông của nó cả nên con cừu đen mang số lông ấy về nhà. Ngày hôm sau, nó lại mang ra bán tiếp nhưng mọi chuyện cứ diễn ra y như hôm trước. Và hôm sau, hôm sau nữa cũng y như vậy.

Một ngày nọ, khi con cừu đen đang ngồi buồn rầu với số lông của mình, có một cậu bé chạy lại và hỏi nó có bán số lông này không. Nghe hỏi, con cừu đen vô cùng mừng rỡ và nói có. Cậu bé chạy đến chỗ bố mẹ mình thông báo có chỗ bán lông cừu. Họ cùng nhau đến chỗ con cừu và ngỏ ý muốn mua hết toàn bộ số lông. Họ cho biết mình đến từ ngôi làng kế bên và đã tìm kiếm rất nhiều nơi để tìm mua lông cừu đen nhưng không có chỗ nào bán cả.

Ngày hôm ấy, con cừu trở về nhà và cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi những cố gắng của nó đã được đền đáp xứng đáng.

Ý nghĩa của câu chuyện: Hãy cố gắng, kiên trì và không bao giờ bỏ cuộc, có ngày con sẽ thành công.

Ngày xửa ngày xưa, tại một đất nước có nhà vua và hoàng hậu mãi không có con và họ mong ước có một đứa con để chăm sóc. Bỗng nhiên một tối có con ếch nói:

– Mong ước của bà sẽ trở thành hiện thực. Qua năm nay người sẽ sinh một cô con gái.

Đúng như vậy, hoàng hậu đã sinh hạ một bé gái vô cùng xinh đẹp và dễ thương. Nhà vua mở tiệc tổ chức để chúc mừng, ngài còn mời cả các bà mụ đển để chăm sóc tốt nhất cho cô công chúa.

Nhưng truyện Công chúa ngủ trong rừng xảy ra khi vua chỉ mời có 12 bà mụ và thiếu mất 1 người. Xong bữa tiệc tất cả các bà mụ đều chúc công chúa. Mụ thứ nhất chúc cho công chúa đức hạnh, mụ thứ hai chúc dung nhan, mụ thứ ba là phú phú, giàu sang. Lần lượt tất cả các mụ đều chúc cho công chúa những lời tốt đẹp nhất. Bà mụ 11 vừa dứt lời thì bà mụ thứ 13 xuất hiện, ba tiến thẳng về phía công chúa và hét lên:

– Đến khi 15 tuổi công chứa sẽ bị mũi quay đâm vào tay và lăn ra chết ngay tức khắc

Tất cả mọi người bàng hoàng và kinh hãi. Cũng rất may vẫn còn mụ thứ 12, mụ không thể hóa giải lời nguyền này nhưng cũng có thể làm nó giảm nhẹ hơn. Mụ nói:

– Công chúa sẽ không chết mà ngủ một giấc dài trăm năm.

Đúng như lời chúc của các mụ công chúa thông minh, xinh đẹp, tài giỏi, dịu dàng và nết na. Ai gặp cũng phải yêu mến. Truyện Công chúa ngủ trong rừng được lan truyền khi cô bước vào tuổi mới lớn.

Đến khi 15 tuổi nhà vua và hoàng hậu đều phải đi vắng. Công chúa chạy đi chơi lang thang khắp nơi. Nàng gặp một chiếc cầu thang hình trôn ốc. Gặp một chiếc cửa nhỏ nàng mở ra và có một bà lão đang ngồi kéo sợi rất chăm chỉ. Nàng hỏi bà lão.

– Bà đang làm gì vậy ạ?

– Bà đang kéo sợi.

– Cái gì mà nhảy lên nhảy xuống nhanh thế kia vậy bà?

Nàng với sờ vào đồ kéo sợi ngay lập tức lời nguyền của mụ thứ 13 phát huy tác dụng. Mũi kim đã đâm vào tay nàng ngủ ngay lập tức. Cả cung điện chìm vào giâc ngủ triền mien không loại trừ các sinh vật nhỏ bé.

Những bụi hồng gai mọc xung quanh lâu đài ngày càng nhiều. Rồi trong vùng ấy lan truyền truyện công chúa ngủ trong rừng. Mọi người thường gọi cô là công chúa Hồng Hoa. Sau khi nghe chuyện có vị hoàng tử muốn tìm đường chui vào bên trong nhưng bụi hồng gai làm họ bị nghẽn và không thoát ra được.

Trải qua thời gian dài, có một chàng hoàng tử đã nghe tiếng dân nói có bụi Hồng gai khiến bao người bỏ mạng. Công chúa vẫn rơi vào giấc ngủ triền miên. Chàng hoàng tử này nói:

– Con không sợ con muốn đi cứu nàng Công chúa ngủ trong rừng xinh đẹp ấy.

Thấm thoát đã nhiều năm, công chúa có cơ hội tỉnh dậy sau giấc ngủ dài. Vị hoàng tử này tiến đên đó không gian u ám biến mất. Chàng đi tới đâu bụi hồng gai khéo kín tới đó. Vào dân chàng thấy ngựa, chó, những chú chim ngủ say, con ruổi im lặng. Mọi cảnh vật đều có vẻ trầm tĩnh và quá im lặng.

Chàng đến một căn phòng mà công chúa đang ngủ dưới chiếc khung cửi. Chàng ngắm công chúa một hồi lâu và trao một nụ hôn. Nàng chợt tỉnh giấc và nhìn chàng với ánh mắt trìu mến. Chàng nắm tay công chúa xuống dưới lầu. Khi đó, nhà vua, hoàng hậu để đã bừng tỉnh. Mọi vật đều sống động trở lại. Cây xanh tốt, chim hót níu lo. Từ đó họ có một lễ cưới tuyệt vời và sống bên nhau hạnh phúc.

Ngày xửa ngày xưa, tận dưới đáy đại dương mênh mông xanh thẳm, nơi đó có một lâu đài nguy nga tráng lệ, nơi mà vua Thủy Tề và các cô con gái sinh đẹp của ông sinh sống. Vua Thủy tề với trí óc thông thái, bộ râu ông dài và trắng một màu như cước. Ông sống trong lâu đài uy nga đó và một mình trị vì biển khơi.

Vua Thủy Tề có một cô con gái út rất xinh đẹp tên là Ariel, nàng cực kì xinh đẹp, giọng hát của nàng trong trẻo mát xanh tựa như những dòng nước sâu dưới biển khơi.

Vua Thủy Tề nói với con gái mình: “Ariel yêu dấu, con có một chất giọng thật tuyệt vời, mỗi khi con cất lên tiếng hát, tất cả những loài vật dưới biển khơi này đều tụ tập từng đàn rất đông nghe con hát. Cả những con trai bình thường chúng chỉ ẩn nấp dưới lớp vỏ cứng cũng mở miệng ra tán thưởng, để lộ ra những viên ngọc quý, và đàn sứa cũng dừng trôi để nghe tiếng hát trong trẻo của con”.

Nàng tiên cá vẫn hay ngồi ngắm những làn ánh sáng chiếu xuống từ mặt trời rọi xuyên quan những làn nước sâu mờ mờ ảo ảo.

Nàng tiên cá Ariel nói với những người chị của mình rằng: “Em ước một ngày nào đó cỏ thể lên trên kia ngắm nhìn bầu trời, em thấy lũ cá nói với nhau rằng trên đó rất đẹp, trên đó có con người và cả những bông hoa rất đẹp với đầy đủ màu sắc”.

Những người chị nói với cô em út: “Rồi điều ước của em sẽ thành hiện thực mà, em cứ chờ cho tới khi em tròn 15, lúc đó cha sẽ cho phép em được bơi lên mặt nước giống như là các chị vậy”. Vâng em sẽ cố gắng chờ đến ngày đó – Ariel đáp.

Hàng ngày, các nàng tiên cá chỉ được bơi lên trên mặt nước vào đêm. Khi những người chị trở về, Ariel hỏi các chị gái: “Trên đó các chị thấy những gì vậy, kể cho em nghe”.

Nàng nghe các chị mình kể những gì họ dã nhìn thấy để thỏa mãn chí tò mò của một cô gái đang trong tuổi lớn. Trong lúc các chị lên trên mặt nước chơi đùa thì Ariel phải ở lại chơi với các bạn cá ngựa và cá heo.

Năm tháng trôi đi, cuối cùng thì ngày sinh thứ 15 của nàng Ariel cũng đã tới. Trước ngày hôm đó, Ariel rất hồi hộp: “Em không ngủ được các chị ạ, đến sáng ngày mai là em đã bước sang tuổi 15 rồi, thế là em có thể lên mặt nước vui đùa cùng các chị rồi”.

Buổi sáng hôm ấy, Vua Thủy Tề gọi cô con gái út và nói: “Cha chúc mừng sinh nhật con cái út của cha, đến giờ con đã tròn 15 và con có thể cùng các chị gái của mình lên mặt nước để hít thở và ngắm nhìn bầu trời rồi. Nhưng con hãy nhớ điều cha dặn, thế giới chúng ta là ở dưới biển, trên đó không phải là thế giới của chúng ta, con có thể lên trên đó để ngắm nhìn mặt biển và bầu trời. Chúng ta không thuộc về thế giới của loài người nên con hãy nhớ hãy tránh xa họ ra, họ chỉ đem lại những xui xẻo cho chúng ta mà thôi”.

Ariel nói: “Con sẽ nhớ lời cha dặn dò, con cảm ơn cha”.

Ngay lập tức, với sự háo hức của mình, nàng bơi ngay lên mặt nước. Trên đường nàng đi, các bạn cá heo cá ngựa vẫn hay vui đùa cùng nàng chúc nàng đi chuyến đi đầu tiên lên mặt nước vui vẻ.

Khi nàng lên tới mặt nước, bầu trời đã bắt đầu tối sẩm, trên trời những ngôi sao dần dần hiện rõ và lấp lánh. Ariel vui sướng kêu lên: “Đẹp quá, lần đầu tiên mình được trông những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời rộng lớn”

Phía trước là cái gì vậy? Một con thuyền. Thêm một điều nữa làm cho nàng tiên cá Ariel cảm thấy ngạc nhiên và thú vị

Con tàu đang tiến chầm chậm tới tảng đá mà Ariel đang ngồi. Đoàn thủy thủ thả neo để cho con thuyền đỗ tại một nơi sóng yên biển lặng.

Ariel cảm thấy rất thích thú khi nhìn những thủy thủ trên con tàu làm việc, họ thắp lên những ngọn đuốc, nàng còn nghe rất rõ họ nói chuyện với nhau: “Đến lúc chúng ta nghỉ ngơi ăn bữa tối rồi, nào các bạn ơi hãy mau lên bờ thôi”.

Ariel nghĩ “Mình muốn tới nói chuyện với họ quá, nhưng mình không có đôi chân như họ, mình có cái đuôi dài và không bao giờ giống họ được”.

Nàng tiên cá còn nghe thấy thêm nhiều giọng nói vang lên, một lát sau những chùm ánh sáng với đủ màu sắc rực rỡ xuất hiện trên bầu trời của những luồng pháo hoa nổ giữa bầu trời đêm.

Xin chúc mừng sinh nhật hoàng tử, vị thuyền trưởng của chúng ta. Hôm nay là sinh nhật thứ 20 của người, chúc hoàng tử luôn vui vẻ và hạnh phúc.

Xin cám ơn các bạn của ta – Hoàng tử đáp.

Ariel tự hỏi “Sinh nhật của ai vậy nhỉ?”

Nàng thấy ở trên boong tàu, xuất hiện một chàng trai vẻ ngoài cực kì khôi ngô và tuấn tú, mọi người đang vui vẻ chúc mừng sinh nhật chàng trai. Ariel ngắm nhìn chàng trai say đắm, nàng thốt lên: “Ôi hoàng tử mới đẹp làm sao!”

Bữa tiệc sinh nhật vẫn diễn ra, đột nhiên hoàng tử sẩy chân ngã khỏi boong tàu, chàng ngã rơi xuống dưới biển. Ariel vội vàng bơi nhanh ra cứu chàng, nàng vừa bơi vừa đẩy hoàng tử lên phía bờ biển.

Hoàng tử nằm trên bãi cát, đôi mắt hoàng tử vẫn nhắm nghiền. Ariel luống cuống: “Giờ ta phải làm thế nào đây?”

Nàng ngồi bên cạnh chàng hoàng tử suốt cả đêm. Khi mặt trời bắt đầu ló lên khỏi mặt đất cũng là lúc nàng tiên cá phải trở về với biển khơi.

Hoàng tử dần dần tỉnh dậy khi ánh nắng đầu tiên của mặt trời rọi xuống. Chàng tự hỏi: “Cô gái xinh đẹp hôm qua đã cứu mình đâu? Nàng thật xinh đẹp, giọng nói nàng thật tuyệt vời. Giờ mình phải trở về cung điện đã, chắc mọi người đang rất lo lắng cho mình”.

Hoàng tử rời bãi biển để quay về cung điện, ngày hôm sau, hoàng tử lên con tàu và gửi lời cảm ơn tới người con gái đã cứu sống chàng mà chàng chưa hề biết tên. Chàng nói to: “Xin cảm ơn nàng, cảm ơn nàng đã cứu ta, người con gái vô cùng xinh đẹp”

Khi trở về tới thủy cung, các chị gái nàng hỏi sao nàng lại ở trên bờ lâu đến thế. Nàng tiên cá Ariel định kể lại câu chuyện của mình cho các chị nghe nhưng nàng ngập ngừng rồi không nói. Nàng bật khóc và trở về phòng.

Một người chị của nàng vào phòng hỏi: “Ariel, em đã trở về được 3 ngày rồi, em đã gặp chuyện gì trên đó mà từ lúc về em không chịu ăn uống gì cả?”

Ariel nói với chị: “Chị à, em muốn được kết hôn với hoàng tử”.

Người chị ngạc nhiên nói: “Sao lại thế được em, chúng ta và con người hoàn toàn khác nhau, chúng ta là tiên cá, không thể kết hôn cùng với con người được. Em hãy từ bỏ ý nghĩ ngốc nghếch đó đi. Có thể mụ phù thủy sẽ có cách giúp em”

Nàng liền bơi tới chỗ mụ phù thủy….

Ta đang gặp ai đây, ôi công chúa Ariel, điều gì mang công chúa tới gặp ta vậy?

Ariel nói: “Tôi muốn được trở thành con người”

Mụ phù thủy hỏi: “Vậy là công chúa muốn bỏ đi cái đuôi và muốn có hai chân như con người phải không?”

Ariel trả lời ngắn gọn: “Đúng vậy”

Điều này không hề dễ dàng đâu, công chúa sẽ cực kì đau đớn vì khi đó ta phải dùng một thanh kiếm sắc cắt đi chiếc đuôi của người. Và mỗi khi công chúa đặt chân len mặt đất thì công chúa sẽ chịu rất nhiều đau đớn.

Ariel nói: “Không sao hết, miễn là tôi có thể được đặt chân lên mặt đất để gặp lại hoàng tử thêm một lần nữa”

Mụ phù thủy ra điều kiện: “Thế công chúa sẽ trả công cho ta ra sao? Nếu như ta giúp công chúa, công chúa sẽ phải trao cho ta giọng hát hay nhất biển khơi này của người, và như thế thì người sẽ không bao giờ nói được nữa. Và công chúa hãy nhớ một điều rằng, nếu như vị hoàng tử mà công chúa yêu lại đem lòng kết hôn cùng với một người con gái khác thì công chúa sẽ vĩnh viễn không bao giờ quay lại làm tiên cá được nữa. Công chúa sẽ bị tan biến như bọt biển”

Ariel đáp: “Được, ta đồng ý”

Mụ phù thủy lấy ra một chiếc vỏ sò và thu lại giọng hát trong trẻo của nàng, mụ đưa nàng một liều thuốc thần.

Nàng tiên cá Ariel mang liều thuốc thần đó bơi lên trên mặt nước. Khi lên tới bờ, nàng đã uống thuốc thần và ngã ra ngất xỉu.

Khi tỉnh dậy, nàng thấy khuân mặt thân yêu của của chàng hoàng tử đang mỉm cười với nàng.

Xin chào cô gái, nàng đừng sợ. Ta thấy nàng nằm bất tỉnh nơi đây, giờ nàng thấy trong người sao rồi?

Ariel định cất tiếng trả lời hoàng tử nhưng giờ nàng đã bị mất đi giọng nói.

Nàng đừng sợ, đã có ta ở đây rồi. Nhà nàng ở đâu? Nàng từ đâu tới?

Ariel vì mất giọng nói nên vẫn im lặng.

Hoàng tử nói: “Ta xin lỗi nàng, thôi giờ nàng hãy theo ta về lâu đài để ta có thể tiện chăm sóc”

Những ngày sau, cuộc sống của nàng tiên cá Ariel đã như bước sang trang mới. Tuy nhiên, mụ phù thủy đã cảnh báo nàng rằng mỗi bước chân của nàng sẽ rất đau đớn như kim đâm, nàng tiên cá vẫn cố gắng chịu đựng và không hề kêu than.

Hoàng tử rủ nàng đi dạo trên bờ biển. Ariel và hoàng tử dạo bước thì bỗng nhiên hoàng tử đứng lại và kiếm tìm xung quanh.

Hoàng tử nói: “Nàng có nghe thấy giọng hát đó không, giọng hát này là của một cô gái du dương bên tai ta khi ta được cô gái đó cứu sống từ biển khơi”

Ariel rất ngạc nhiên.

Hoàng tử quay lại và thấy một cô gái cực kì xinh đẹp đang đứng ngay trước mặt mình. Đó chính là cô gái mà do mụ phù thủy biến thành. Sau khi lấy được giọng hát ngọt ngào của Ariel, mụ đã lấy tên là Vanessa. Tiếng hát ngọt ngào đó mụ giấu trong một chiếc vò sò và đeo trên cổ.

Hoàng tử nói: “Thật là một giọng hát tuyệt vời, ta yêu giọng hát ấy”

Mụ phù thủy nói: “Em xin cảm ơn hoàng tử, hoàng tử cũng rất là điển trai”

Hoàng tử nói tiếp: “Nàng hãy theo ta về cung điện”

Mụ phù thủy đáp: Vâng, vậy em xin nghe theo lời chàng.

Thế là cả 3 người cùng trở về lâu đài. Ngày qua ngày, mụ phù thủy dùng vẻ đẹp bên ngoài do dùng phép và giọng hát lấy được từ Ariel quyến rũ hoàng tử. Cuối cùng, hoàng tử cũng quyết định kết hôn cùng Vanessa.

Hoàng tử hỏi nàng tiên cá Ariel: “Ta muốn kết hôn cùng với Vanessa, nàng thấy thế nào?”

Khi nghe thấy hoàng tử nói vậy, trái tim của Ariel đã hoàn toàn tan vỡ, nước mắt nàng cứ trào ra nhưng nàng vẫn gật đầu với hoàng tử.

Thôi, anh phải đi để chuẩn bị cho lễ cưới thôi, hôn lễ sẽ được tổ chức vào tối mai, ngay tên tại boong tàu.

Ariel buồn lắm, nhưng nàng cũng không biết phải làm gì cả.

Sang ngày hôm sau, tất cả mọi người lên trên tàu và khởi hành ra ngoài biển khơi. Vanessa đã ăn mặc rất lộng lẫy.

Hoàng tử hỏi: “Vanessa, nàng đã xong chưa? Ra đây cho ta ngắm nàng một chút nào”

Vâng, em ra ngay đây, chàng đợi em một chút.

Bỗng nhiên hoàng tử thấy Vanessa gào lên: Không! Không thể nào!

Hoàng tử hỏi: “Có chuyện gì mà nàng hốt hoảng vậy Vanessa?”

Thì ra, chiếc vỏ sò mà Vanessa đeo trên cổ đã rơi xuống đất và vỡ tan tành, nhờ thế mà giọng hát của nàng tiên cá Ariel được giải thoát trở về với cô.

Ariel nói: “Hoàng tử, Vanessa là phù thủy đấy”

Hoàng tử ngạc nhiên nói: “Ta không hiểu chuyện gì nữa, chuyện gì đang diễn ra? Sao nàng lại có giọng nói cả Vanessa?”

Vâng, em đồng ý…

Ngay khi Ariel nói dứt lời thì mụ phù thủy kéo Ariel lôi nàng xuống dưới biển. Ngay khi chạm mặt nước, Ariel đã trở lại hình dạng tiên cá như trước.

Vua Thủy Tề linh càm thấy có chuyện chẳng lành sảy ra nên liền lập tức đi cứu Ariel. Thấy cha mình xuất hiện, Ariel kêu cứu: “Cha ơi cứu con”

Vua thủy tề ra lệnh: “Ngươi hãy thả con gái ta ra ngay”

Mụ phù thủy nói: “Ngươi không cứu được con gái ngươi đâu, giờ nó là nô lệ của ta”

Vua Thủy Tề chĩa mũi đinh ba vào mụ phù thủy phóng ra một tia sét, sức mạnh của nó làm mụ phù thủ phải rời tay khỏi Ariel. Mụ bị thương và chìm xuống dưới đáy biển. Ariel được giải thoát.

Con đừng lo, mụ ta sẽ không bao giờ sống lại để hại con nữa.

Cha ơi, nhưng con muốn….

Cha biết, con muốn được kết hôn với hoàng tử.

Vâng cha.

Được, giờ ta sẽ biến con trở thành con người mãi mãi, và từ nay con sẽ không thể làm một nàng tiên cá được nữa, con có chịu không?

Con đồng ý thưa cha.

Vua Thủy Tề biến Ariel thành con người, trên thuyền hoàng tử đã tận mắt trông thấy những điều sảy ra, chàng dùng dây kéo nàng lên boong thuyền.

Ariel nói: Kia là cha em, còn kia là các chị gái của em.

Hoàng tử giơ tay vẫy chào họ.

Vua Thủy Tề ban phúc: Chúc hai con trăm năm hạnh phúc ! Hãy nhớ yêu thương nhau đến trọn đời!

Hoàng tử và Ariel tổ chức một đám cưới linh đình và mọi người chúc họ hạnh phúc mãi mãi.

Có bác thợ xay nọ, trong nhà có được ba đứa con trai, và gia tài của bác thì có được ba thứ đó là: một chiếc cối xay gió, còn một con lừa cùng một con mèo nữa. Ba đứa con trai của bác thì có nhiệm vụ xay bột, con lừa thì đảm nhiệm vụ đi lấy ngũ cốc để về xay rồi lại chở bột xay đi, và con mèo tất nhiên làm công việc bắt lũ chuột rồi.

Vào ngày kia, bác thợ xay đột nhiên qua đời, và ba người con trai của bác liền chia nhau khối tài sản của cha mình để lại: người anh cả thì lấy đi chiếc cối xay gió, còn người anh hai thì lại chọn lấy con lừa, và người em út thì đành phải nhận con mèo, bởi vì gia tài của nhà họ cũng chỉ có những thứ ấy mà thôi.

Cậu em út cảm thấy vô cùng buồn rầu bèn ngồi một chỗ mà lẩm bẩm:

– Chia gia tài thì mình phải nhận phần tệ nhất trong nhà. Anh cả còn có thể làm nghề xay bột, còn anh hai vẫn còn được con lừa để cưỡi, nhưng còn mình thì, mình lấy con mèo kia thì làm ăn được gì chứ? May ra đem nó đi lột da thì làm được một đôi găng lông, và thế là hết sạch chỗ gia tài mình được hưởng rồi.

Advertisement

Sau khi nghe được đầu đuôi mọi chuyện mà chủ của mình đang lo lắng, con mèo liền bảo:

– Thưa cậu, cậu hãy nghe tôi này, cậu không nên giết tôi để làm lấy đôi găng tay tồi ấy làm gì cả. Bây giờ cậu hãy thuê thợ để làm cho tôi đôi hia, tôi sẽ đeo hia đi dạo phố, khi đó tất cả mọi người chắc chắn sẽ lưu ý tôi, và rồi cậu sẽ được nở mày nở mặt và ăn nên làm ra ngay thôi.

Cậu con trai út của bác thợ xay vô cùng ngạc nhiên khi nghe những điều mèo nói. Vừa đúng lúc có một người thợ giày đang đi ngang qua đó, anh liền gọi người đó vào và thuê làm một đôi hia cho mèo. Đôi hia rất nhanh được hoàn thành, mèo đeo hia vào chân, sau đó đổ đầy lúa mạch vào trong một chiếc bao, rồi buộc chặt lại miệng bao tránh để lúa mạch bên trong vương ra ngoài. Chuẩn bị xong xuôi mèo ta quẩy luôn bao lên trên vai, và nó cứ bước đi ra cửa, mà đi bằng hai chân hệt như con người hẳn noi.

Nhà vua trị vì lúc bấy giờ là một người rất thích ăn thịt chim đa đa. Tuy nhiên lúc bấy giờ chim đa đa cũng trở nên quý hiếm hơn rất nhiều, cũng hầu như không còn người nào còn có thể săn bắt được chúng nữa. Khắp cả khu rừng thì đâu đâu cũng toàn là chim đa đa sinh sống, nhưng bởi vì loài chim này quá nhát, chỉ thấy hơi động một chút là chúng bay đi ngay, bởi thế mà đám thợ săn không cách nào tới gần đám chim đa đa mà săn bắn chúng được.

Khi mèo ta nghe được những chuyện đó thì lập tức nghĩ cách để bắt được đám chim đa đa kia. Khi vào rừng, mèo đem cởi nút thắt ở bao ra, rồi rắc ít lúa mạch ra xung quanh và giấu những bẫy dây lẫn ở trong cỏ, còn mèo thì lại ẩn nấp ở trong một bụi rậm ngay gần đó để nằm rình mồi. Chỉ một lát sau đã có mấy con chim đa đa xà xuống để ăn lúa mạch. Khi đã ăn hết chỗ lúa mạch vương mãi ở chung quanh thì liền lần theo vào trong bao để ăn tiếp. Đợi cho đến khi khá đông chim đa đa cùng chui vào trong bao ăn lúa mạch thì mèo lập tức nhảy ra, túm lại miệng bao rồi vác cả bao chim lên trên vai, mèo ta cứ nhằm thẳng hướng tới hoàng cung mà đi.

Khi nhìn thấy mèo cùng một cái bao thì đám lính canh liền hô lên:

– Đứng lại ngay! Đi đâu, nói?

Mèo cũng đứng lại mà đáp vô cùng ngắn gọn rằng:

– Tôi muốn vào trong để gặp nhà vua.

– Con mèo này có bị điên không thế? Đời thuở nào mà một con mèo lại dám đòi vào gặp mặt nhà vua hả?

Nhưng một tên lính canh khác lại xen ngang mà nói:

– Thì cứ để nó vào xem sao. Nhà vua dạo này thường buồn phiền, biết đâu được khi thấy con mèo này làm trò hừ hừ hoặc nhảy nhót gì đó lố lăng lại làm cho hoàng thượng cảm thấy khuây khỏa hơn thì sao?

Mèo qua được ải lính canh mà tiến thẳng vào đại điện trong cung. Khi đến trước mặt nhà vua thì mèo ta liền dừng lại, nó đứng thẳng hai chân sau rồi gập người để cúi chào vị vua kia, nó nói:

– Muôn tâu bệ hạ cao quý, chủ nhân của tôi là ngài bá tước… – Nó bịa ra cái tên cao quý thật dài rồi nói tiếp.

– Trân trọng được gửi tới cho hoàng thượng những lời chúc sức khỏe tốt đẹp nhất, và kính xin được dâng lên cho người số chim đa đa mà ngài bá tước mới vừa bẫy được.

Mèo dâng lên cho nhà vua toàn bộ số chim đa đa mình vừa bắt được khi nãy. Những con chim này con nào con nấy đều béo trong khiến nhà vua cảm thấy vô cùng hài lòng. Vì quá vui mừng nên nhà vua lập tức truyền lệnh xuống mở cửa nhà kho và cho phép mèo được lấy vàng bạc vào bao số lượng tùy thích.

Nhà vua cũng phán rằng:

– Ngươi hãy nhớ đem số vàng ấy về giao cho chủ nhân của mình, hãy nói rằng rất đa tạ vì bá tước đã tặng ta món quà kia.

Trong lúc ấy thì cậu con trai út của bác thợ xay lại vô cùng rầu rĩ ngồi ôm đầu bên cửa sổ suy nghĩ đủ chuyện. Bởi vì anh có bao nhiêu tiền bao nhiêu của đều đem đổ hết ra để mua hia cho mèo rồi, nhưng lại chẳng biết được nó có làm ăn được gì không? Vào lúc anh ta buồn rầu nhất thì mèo trở lại, nó đặt cái bao đang vác xuống nền nhà, rồi cởi cái nút thắt, sau đó thì trút hết số vàng ở trong bao ra trước mặt người chủ của mình và nói rằng:

– Cậu chủ, cái này chính là chút ít tiền để bù lại số tiền cậu đã bỏ ra để mua đôi hia này cho tôi. Và nhà vua đã gửi lời chào hỏi cũng như đa tạ với cậu nữa.

Vì quá vui sướng khi nhìn thấy số gia tài mà mèo đem về nên anh ta cũng chẳng để ý tới những lời mèo nói, cũng chẳng quan tâm xem chuyện xảy ra như thế nào. Sau đó mèo mới từ từ tháo đôi hia của mình ra, kể lại cho chủ nhân của mình nghe đầu đuôi câu chuyện. Mèo lại bảo:

– Bây giờ cậu chủ cũng đã có đủ tiền, nhưng không thể chỉ có từng ấy thôi. Sáng ngày mai tôi sẽ lại xỏ đôi hia kia vào, và cậu sẽ còn được giàu có hơn lúc này rất nhiều. Tôi đã nói với nhà vua rằng cậu chính là một bá tước đấy.

Sáng ngày hôm sau, như lời mèo đã nói, nó xỏ đôi hia vào chân và bắt đầu đi săn, rồi nó lại đem tới tặng cho nhà vua những bao đầy những con chim đa đa béo tròn. Và mọi việc diễn ra vô cùng suôn sẻ như thế, mỗi ngày mèo sẽ đều đặn đem chim đa đa tới để dâng cho nhà vua, rồi lại đem về nhà cho cậu con trai út của bác thợ xay những bao đầy vàng. Hơn nữa mèo ta còn rất được vua yêu quý, nhà vua còn coi nó như một cận thần đáng tin cậy của mình, vì vậy nó ra vào cung đều không bị lính canh tra hỏi điều gì, nó cứ tha hồ mà tung tăng ở trong cung dạo chơi.

Vào một ngày nọ, khi mèo đang nằm sưởi ấm ở trong bếp của nhà vua thì nghe thấy một người đánh xe đang đi cũng không quên nguyền rủa liên tục:

– Mình cầu cho nhà vua và công chúa kia bị đao phủ chặt đầu đi cho rồi! Bây giờ mình thì đang muốn được ra quán nhậu cùng mọi người chơi bài thỏa trí, nhưng lại bị gọi về đánh xe đưa bọn họ ta bờ hồ để dạo chơi ngắm cảnh.

Mèo nghe được hết câu chuyện của người đánh xe, liền rón rén chạy nhanh về nhà bảo với chủ nhân của nó:

– Cậu chủ ơi, nếu như cậu thực sự muốn mình trở thành một bá tước, trở nên thật giàu có thì cậu mau theo tôi ra ngoài bờ hồ, sau đó hãy nhảy xuống hồ mà tắm.

Cậu con trai út của bác thợ xay nghe mèo nói cũng không hiểu chuyện gì đang xảy ra cả, nhưng cũng chẳng nói điều gì, chỉ lẳng lặng đi theo mèo tới bờ hồ, sau đó thì cởi sạch quần áo và nhảy cái ùm xuống dưới nước. Mèo lại đem hết đống quần áo của anh ta giấu đi thật kĩ. Khi nó vừa giấu xong đống quần áo đấy thì cũng vừa lúc nhà vua đem theo nàng công chúa đến. Mèo lập tức mở miệng la lối om sòm, nghe tiếng nó vô cùng khẩn trương và thảm thiết không tả nổi:

– Giời ơi là giời! Muôn tâu bệ hạ, chẳng là ngài bá tước chủ nhân của tôi vừa mới xuống tắm ở hồ này, bỗng nhiên xuất hiện một tên cướp, tên đó đã đánh cắp mọi đồ đạc cùng quần áo trên bờ. Và giờ thì làm sao mà chủ nhân của tôi có thể lên được cơ chứ? Nếu như cứ ngâm lâu dưới nước như vậy thì ngài ấy sẽ bị cảm lạnh đến chết mất!

Khi nghe thấy mèo kêu gào thì nhà vua lập tức cho xe dừng lại, rồi lệnh cho một trong số những cận thần của mình trở lại cung để lấy một bộ đồ của nhà vua và đem tới. Ngài “Bá Tước” đem bộ quần áo vô cùng lộng lẫy kia mặc vào người. Nhà vua thì vẫn luôn nghĩ rằng người này chính là vị bá tước luôn luôn bẫy chim đa đa và tặng cho mình nên biệt đãi vô cùng chu đáo, còn mời bá tước lên cùng xe với mình. Nói tới nàng công chúa kia thì nàng cũng chẳng tìm ra lí do để mình cảm thấy khó chịu, bởi vì vị bá tước này vừa trẻ, vừa đẹp trai, hơn nữa nàng còn thấy vị bá tước này là một người vô cùng dễ thương nữa.

Mèo liền đi ở phía trước đoàn xe, khi tới một cánh đồng vô cùng mênh mông rộng lớn, nơi đó phải có khoảng hơn trăm người đang chăm chỉ phát cỏ. Mèo liền tới hỏi họ:

– Này các bác nông ơi, cánh đồng này là của ai đấy?

– Là của thầy phù thủy nhiều tà thuật đấy.

Nghe xong mèo lại dặn họ rằng:

– Mấy bác hãy nghe tôi nói: Xe ngựa của nhà vua đang đi tới vùng này rồi. Nếu như nhà vua có hỏi các bác cánh đồng này là của ai, các bác nhớ phải trả lời rằng nó là của ngài bá tước! Nếu như mọi người không trả.

Và mèo lại tiếp tục đi qua cánh đồng cỏ, nó đi đến một cánh đồng trồng lúa mạch lớn, cánh đồng bạt ngàn tới tận nơi chân trời. Chắc phải có tới hơn hai trăm người đang gặt lúa. Mèo liền hỏi:

– Này các bác thợ gặt ơi, đồng lúa này là của ai đấy?

– Là của thầy phù thủy nhiều tà thuật đấy.

Và cuối cùng thì mèo lại đi tới một khu rừng vô cùng rộng rãi, bao la và đẹp đẽ, nơi đó có hơn ba trăm người tiều phu đang đốn củi, những cây sồi họ đốn phải to đến mấy người ôm mới hết. Họ đang chăm chỉ xẻ gỗ ở đó. Mèo liền tới và hỏi:

– Này các bác tiều phu ơi, khu rừng này là của ai đấy?

– Là của thầy phù thủy nhiều tà thuật đấy.

Và mèo lại tiếp tục đi tiếp. Nhìn thấy mèo dáng đi vô cùng kỳ dị, lại còn đi thư thái hệt như con người, chân còn đi hia thì tất cả mọi người đều nhìn theo nó với một vẻ kính nể và sợ hãi vô cùng. Chỉ đi thêm một lát nữa thì mèo đã tới được lâu đài nơi thầy phù thủy lắm tà thuật đang ở. Mèo ta bước tới trước mặt thầy phù thủy một cách hiên ngang. Khi thầy phù thủy nhìn đến mèo thì ánh mắt tràn đầy khinh bỉ, ông ta hỏi mèo tới đây là muốn điều gì. Mèo trước tiên vái chào ông ta, sau đó mới thưa:

– Bởi vì tôi nghe người ta đồn rằng ông có khả năng tùy hứng mà biến mình thành bất cứ con vật gì ông muốn. Có thể biến thành chó, có thể biến thành cáo, thậm chí có thể biến thành chó sói nữa, những chuyện đó thì tôi đây có thể tin được hết. Nhưng tôi càng tin chắc rằng ông không thể nào mà biến được thành một con voi to lớn được phải không? Vì vậy tôi mới tự mình đến đây để có thể chính mắt nhìn thấy sự thật xem có phải là như thế không.

Thầy phù thủy nghe mèo trình bày xong thì dương dương tự đắc mà nói rằng:

– Tưởng chuyện gì chứ việc đó với ta cũng chỉ là chút việc vặt mà thôi.

Chỉ trong nháy mắt thì thầy phù thủy lập tức biến thành một con voi vô cùng to lớn. Mèo lại nói:

– Như vậy đúng thật là đáng nể lắm đấy, nhưng liệu ông có thể biến thành một con sư tử dũng mãnh được không vậy?

– Đó cũng chỉ là việc vặt có chi đáng nói đâu!

Nói đoạn thì xuất hiện ngay trước mắt mèo chính là một con sư tử vô cùng oai vệ. Và mèo lại làm bộ như sợ hãi lắm mà kêu:

– Quả nhiên chuyện như thế này tôi chưa từng được nghe qua, cũng chưa từng được nhìn thấy tận mắt! Kể cả là ngay trong giấc mơ tôi cũng chưa từng được thấy điều đó. Tuy nhiên nếu như ông có thể biến thành mấy con vật nhỏ bé như kiểu chuột nhắt ấy thì mới gọi là tài thánh được. Và chắc chắn là ông sẽ tài ba vượt xa cả những thầy phù thủy khác ở trên đời rồi, nhưng là chuyện biến mình thành một con chuột nhắt chắc chắn không ai là làm được đâu.

Vì nghe thấy mèo nói những lời phỉnh rất bùi tai nên thầy phù thủy thấy thích chí lắm, ông ta lập tức đáp:

– Ôi cha cha, này anh bạn mèo mến yêu ơi, ngay cả chuyện đó ta đây cũng có thể làm được đấy.

Ngay tức thì một con chuột nhắt xuất hiện và chạy nhảy tung tăng trong buồng. Và mèo ta theo ngay ở phía sau, nó nhanh như cắt, lập tức vồ lấy con chuột nhắt rồi cho vào mồm nhai ngấu nhai nghiến hết sạch.

Xe ngựa đem theo nhà vua, bá tước cùng nàng công chúa đi dạo, khi tới một cánh đồng cỏ vô cùng mênh mông thì nhà vua liền hỏi:

– Cánh đồng này là của ai thế?

– Muôn tâu bệ hạ, cánh đồng này là của ngài bá tước ạ!

Tất cả mọi người làm việc ở chỗ đồng cỏ đều đồng thanh đáp thật to đúng theo lời dặn của mèo. Nghe vậy thì nhà vua lập tức nhìn sang bá tước và bảo:

– Ngài bá tước à, ngài có được một vùng đất rất đẹp đó!

Và đoàn xe lại tiếp tục chạy qua cánh đồng cỏ, tới nơi cánh đồng trồng lúa mạch rộng bát ngát kia. Nhà vua lại hỏi:

– Các ngươi hãy cho ta biết ruộng lúa này là của ai vậy?

– Muôn tâu bệ hạ, ruộng lúa này là của ngài bá tước ạ!

– Ái chà chà, ngài bá tước! Ngài vừa có đất tốt lại còn rộng bát ngát bao la nữa chứ!

Khi xe chạy tới khu rừng gỗ sồi, nhà vua liền hỏi:

– Rừng nơi này là của ai thế mấy ngươi?

– Muôn tâu bệ hạ, khu rừng này là của ngài bá tước ạ!

Theo bánh xe chạy thì sự ngạc nhiên của nhà vua cũng tăng theo. Nhà vua liền nhìn tới bá tước mà bảo rằng:

– Ngài bá tước ạ, chắc chắn là ngài rất giàu có nhỉ? Ta cũng chưa chắc có được khu rừng vừa rộng, vừa đẹp lại bao la như vậy đâu.

Và đoàn xe lại tiếp tục chạy tới hướng lâu đài, ở đó mèo đã đứng sẵn nơi cầu thang để đợi. Khi chiếc xe ngựa vừa dừng lại thì mèo lập tức nhảy xuống, chạy ra để mở cửa và thưa:

– Muôn tâu bệ hạ, hiện tại bệ hạ đang tới khu lâu đài thuộc sở hữu của ngài bá tước chủ nhân của tôi rồi. Đó chính là điều vinh hạnh cả đời này cho chủ nhân của tôi đấy ạ!

Nhà vua bước xuống xe và vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy trước mắt là một tòa lâu đài vô cùng lộng lẫy, tòa lâu đài này còn to lớn và đẹp đẽ hơn cả hoàng cung của vua nữa. Ngài bá tước lập tức dẫn theo công chúa đến phòng tiếp tân, đó là một căn phòng vô cùng sáng loáng, nó óng ánh bởi những vàng ngọc cùng châu báu. Sau đó thì nàng công chúa cùng đính hôn cùng ngài bá tước. Khi nhà vua băng hà thì bá tước được nối ngôi, và phong cho chú mèo đi hia trở thành tể tướng của mình.

Ngày xưa có một ông vua sinh được ba nàng công chúa. Ba nàng đều xinh đẹp như nhau, nhưng tính tình lại rất khác nhau. Hai công chúa lớn chỉ sống ỷ lại. Cả hai đều lấy được chồng con nhà quan, giàu có. Sẵn có vàng bạc của cải, ngày ngày hai nàng chỉ ngồi ăn chơi. Công việc nhà cửa đều phó thác cho người làm, người ở. Còn công chúa Ba thì nghĩ và làm khác hai chị. Nàng không sống dựa vào giàu có mà trái lại rất siêng năng làm việc và nhất định không chịu lấy chồng con nhà giàu.

Một hôm, vì không nhận lời con trai quan tể tướng nên công chúa Ba bị vua cha đuổi ra khỏi cung. Nhà vua sai người trao cho nàng một con ngựa mù và nói:

– Con đã không muốn sống giàu có thì hãy đi ra khỏi nhà này. Ta muốn xem con làm giàu cách nào bằng hai bàn tay kia và cấm không được trở lại cung điện chừng nào chưa có nhiều tiền bạc của cải hơn hai chị gái.

Công chúa Ba không chút buồn rầu, nàng vỗ về con ngựa mù và nói:

– Sau này ta sẽ trở nên giàu có và chữa cho ngựa khỏi mù.

Nói rồi nàng nhảy lên lưng ngựa, lặng lẽ lên đường. Con ngựa tuy mù cả hai mắt nhưng đi rất đều chân. Đến lúc xẩm tối, ngựa dừng lại trước một túp lều nho nhỏ ven đường mòn bên một cánh rừng. Công chúa xuống ngựa và bước vào lều. Nàng hỏi ra mới biết đây là nhà của một bà già goá chồng. Bà cụ đã ngoài sáu mươi tuổi, có một người con trai vừa tròn ba mươi, chuyên làm nghề đốt than. Vì vậy người ta quen gọi chàng là chàng Đốt Than.

Sau một hồi chuyện trò thăm hỏi, công chúa tự xưng tên và hoàn cảnh của mình và nàng có ý xin ở lại làm dâu bà cụ. Nghe nói vậy bà cụ sợ hãi chắp tay vái lạy công chúa và hết lời từ chối. Chàng Đốt Than cũng không dám nhận lời. Chàng mời công chúa nghỉ lại một đêm rồi sáng sớm mai công chúa định đến đâu chàng dẫn đi đến đó. Công chúa Ba hết sức thành thực xin ở lại làm dâu bà cụ và làm vợ chàng Đốt Than. Bà cụ không còn cách nào từ chối, đành phải nhận lời. Sau bữa cơn rau bình thường, công chúa hỏi han mọi việc làm ăn và mọi sinh hoạt sớm tối ở trong nhà. Ba mẹ con thân mật trò chuyện mãi tới khuya.

Sáng hôm sau, hai mẹ con bà cụ lại mỗi người mỗi việc như thường lệ. Bà cụ dậy sớm nấu cơm cho con trai ăn trước khi đi làm. Chàng Đốt Than cũng dậy rất sớm quẩy sẵn hai gánh nước cho mẹ. Công chúa cũng bắt tay vào công việc. Nàng dậy sớm hơn mọi hôm ở trong cung điện để dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân ngõ, thả ngựa đi ăn cỏ. Sau bữa cơm sáng, chàng Đốt Than lại đeo dao, quẩy sọt vào rừng. Công chúa Ba ngỏ ý muốn đi theo nhưng bà cụ bảo nàng ở lại cùng cuốc vườn để kịp trồng ngô đúng ngày đúng vụ. Nàng làm việc suốt từ sáng đến chiều nên rất mệt. Đến cuối buổi nàng còn tranh thủ cắt thêm một gánh cỏ cho ngựa ăn đêm. Chiều tối, chàng Đốt Than quẩy một gánh than về. Công chúa ra tận ngõ đón chồng.

Từ khi có vợ, chàng không phải đi chợ bán than như mọi khi nữa. Việc bán than đã có vợ giúp nên chàng có nhiều thì giờ vào rừng và đốt ngày càng được nhiều than hơn.

Công chúa Ba đã quen đần với công việc. Sau mỗi buổi đi chợ về, nàng lại vác cuốc ra làm vườn. Một hôm, nàng cuốc phải một vật rất cứng màu vàng, to bằng quả trứng, nhặt lên xem thì đó là một cục vàng, thấy con dâu nhặt hòn đá cho vào túi bà cụ phì cười cho là người cung các muốn chơi đá làm cảnh và cũng không hỏi nàng. Sáng hôm sau công chúa lại cuốc được một cục vàng giống như hôm trước, nàng lại nhặt bỏ vào túi rồi đem cất vào đầu giường nằm. Ngày ngày nàng vẫn cùng mẹ chồng cuốc đất rồi tiếp tục cùng bà cụ gieo trồng. Chàng Đốt Than vẫn vào rừng làm than và quẩy về mỗi ngày một gánh nặng.

Tuy bận việc suốt ngày nhưng công chúa không lúc nào quên con ngựa. Hôm nào nàng cũng dành thì giờ cắt thêm cỏ, hái thêm lá rừng cho ngựa ăn đêm. Một hôm dắt ngựa đi uống nước nàng gặp một đạo sĩ. Thấy con ngựa béo đẹp nhưng lại mù, đạo sĩ đứng lại hỏi chuyện. Công chúa ngỏ ý muốn chữa mắt cho ngựa. Đạo sĩ mách, muốn chữa cho ngựa khỏi mù thì phải lấy lá mản ở trên đỉnh núi Tiên cho ăn và lấy nước giếng phun ở trên đỉnh núi Tiên cho uống trong ba tháng liền. Công chúa cảm ơn đạo sĩ. Rồi từ đấy, chiều nào, sau khi làm vườn xong nàng cũng nhanh chân leo lên đỉnh núi Tiên hái lá mản và múc nước thần về cho ngựa. Nàng kiên trì làm công việc này trong suốt ba tháng ròng. Quả nhiên con ngựa đã khỏi mù.

Một hôm, nàng ngỏ ý muốn theo chồng vào rừng đốt than nhưng chồng không ưng vì sợ vợ không leo được lên dốc. Chờ chồng đi khỏi, nàng lén theo sau. Tới nơi, công chúa hỏi chồng cách đốn cây chặt cành rồi nàng bắt tay vào công việc. Công việc chặt cây rồi cũng quen dần. Chẳng bao lâu những khúc cây chặt xếp đống chật xung quanh lò than. Công chúa bàn với chồng đào thêm một hai cái lò nữa.

Sáng hôm sau, vừa coi lò, chàng Đốt Than vừa cùng vợ đào thêm cái lò thứ hai. Đang đào, chợt công chúa thấy hai cục vàng, rồi bới lại được thêm hai, ba cục nữa. Nàng kêu lên sung sướng. Sau đó hai vợ chồng còn tìm thêm được rất nhiều vàng nữa. Công chúa dặn chồng phải giữ kín chuyện và tìm cách chuyển vàng dần về nhà. Từ hôm ấy, chiều nào hai vợ chồng cũng gánh về một gánh than và cho ngựa thồ thêm một gánh. Trong thồ và gánh than nào cũng có mươi, mười lăm cục vàng. Suốt ba tháng trời, hai vợ chồng nàng đã chuyển hết hang vàng về nhà, chôn giấu cẩn thận. Vườn ngô do hai bàn tay nàng và bà mẹ vun trồng đã tới vụ bẻ. Nàng phải cùng chồng dựng thêm lều chứa ngô thu hái về. Từ đấy, trong nhà đã có đủ ngô ăn quanh năm và có vàng chi dùng.

Thấy trong nhà đã có vàng gấp năm gấp mười kho vàng của vua cha, công chúa bàn với chồng và mẹ dựng nhà tậu trâu, mua ruộng. Nàng bảo chồng vào cung đo nhà của nhà vua để làm một cái nhà y như thế. Chàng Đốt Than theo lời vợ dặn vào cung đo chiều dài, chiều rộng, chiều cao của cung vua. Nhà vua thấy vậy liền quát hỏi chàng Đốt Than. Chàng không chút sợ hãi đáp:

– Tôi là người đốt than, chồng của nàng công chúa Ba, là con rể của nhà vua. Theo lời công chúa, tôi vào đây đo đạc cung vua để về dựng một cái nhà to cao như vậy.

Nghe xong nhà vua giận lắm, lớn tiếng quát tháo và sai lính đuổi chàng Đốt Than. Hai công chúa lớn cũng ra sân xỉa xói, xỉ vả mắng nhiếc chàng thậm tệ. Chàng Đốt Than không nói không rằng, bình thản đi ra cổng thành. Về đến nhà, chàng kể lại cho vợ nghe câu chuyện vừa xảy ra ở trong cung điện. Công chúa an ủi chồng:

– Sau này ta sẽ làm vua cha và hai chị biết. Bây giờ chàng hãy chịu khó ít lâu.

Chàng Đốt Than vào thành thuê một đoàn thợ về xây nhà. Đoàn thợ làm ngày làm đêm, chỉ trong vòng hai tháng, tòa nhà đã dựng xong. Ngày về nhà mới, nàng bảo chồng sang mời vua cha và hoàng hậu sang chơi. Lần này vua không quát như trước nhưng vua mỉa mai bảo chàng Đốt Than về làm kiệu bằng vàng và võng vàng sang đón thì vua và hoàng hậu mới đi. Công chúa Ba cho thợ đúc ngay một cái kiệu vàng và một cái võng vàng sang đón vua và hoàng hậu.

Thấy vậy nhà vua lấy làm lạ lắm. Tuy vua không ưa gì nàng công chúa ngang ngạnh, khó bảo nhưng cũng muốn đến tận nơi, xem công chúa làm ăn như thế nào. Vua cùng hoàng hậu và hai công chúa lớn sang bên công chúa Ba.

Bốn người đến nhà công chúa Ba giữa lúc trong nhà đang đông nghịt những khách đến chúc mừng nhà mới. Ngắm nhìn toà nhà đồ sộ, cột, kèo, xà đều chạm trổ rồng phượng công phu, lại sơn son thiếp vàng sáng chói, nhà vua càng ngạc nhiên. Hai công chúa chị ngẩn người, hết ngắm nhà cửa lại nhìn mâm bàn rồi cùng nhau gật gù thầm khen em gái mãi. Cùng lúc ấy, con ngựa trong tàu hý vang. Chàng Đốt Than dắt con ngựa ra sân. Con ngựa ngẩng cao đầu, vểnh đôi tai, đập bốn vó thình thịch, hý vang như có ý chào mừng nhà vua, hoàng hậu và hai công chúa chị. Nhìn con ngựa tốt, khoẻ mạnh, hai mắt lành lặn và sáng ngời, nhà vua vô cùng cảm động, đến bên ôm lấy cổ ngựa vỗ về.

Sau ba ngày ăn uống linh đình mừng ngôi nhà mới, nhà Vua cùng hoàng hậu và hai công chúa chị ở lại chơi thêm vài ngày. Người rào cũng hỏi han đủ điều. Nghe công chúa Ba kể đầu đuôi mọi công việc làm ăn trong những tháng năm qua, nhà vua hết lời khen ngợi. Biết hai công chúa chị ngồi ăn núi lở, vốn liếng đã cạn nhiều, công chúa Ba tặng mỗi chị vài chục cục vàng. Nàng tha thiết khẩn khoản mời hoàng hậu ở lại với nàng cho vui. Từ đó vợ chồng nàng cùng sống với hai bà mẹ những ngày tháng yên ấm, hạnh phúc.

Ngày xưa có một đôi vợ chồng nghèo sống ở một ngôi nhà nhỏ nhắn ven rừng. Một hôm người vợ thấy cạnh nhà có một giống hoa màu tím lạ, nên nài nỉ bắt ông chồng hái cho được bông hoa đấy.

Thương vợ người chồng leo qua tường hái bông hoa ấy. Nhưng người chồng không ngờ rằng đây là khu vườn của mụ phù thủy. Bà ta bắt gặp người chồng hái trộm nên ra điều kiện:

– Nếu ngươi chịu giao đứa con đầu lòng của ngươi cho ta, ta sẽ tha cho ngươi.

Quá sợ lời nguyền của mụ phù thủy nên người vợ đành chấp nhận lời đề nghị của mụ. Năm ấy người vợ hạ sinh một đứa con gái và vợ chồng họ đành giao đứa con gái đầu lòng của mình cho mụ ta.

Thời gian trôi qua cô bé càng lớn càng xinh đẹp nhất là bộ tóc dài vàng óng mượt. Sợ nàng trốn thoát mụ phù thủy đã đem nàng nhốt trên một ngọn tháp cổ rất cao. Mỗi khi về tới nhà mụ phù thủy lại gọi:

– Tóc dài! Tóc dài!

Thế là cô gái thả mái tóc xuống để mụ phù thủy leo lên. Ở trên tháp cổ một mình ngày nào cô gái tóc dài cũng cất cao tiếng hát để xua đi nỗi cô quạnh.

Một hôm có vị hoàng tử cưỡi ngựa đi ngang qua chợt nghe thấy tiếng hát của nàng. Chàng tò mò đến gần và thấy sự kiện lạ lùng khi thấy mụ phù thủy leo lên và leo xuống cái tháp bằng mái tóc dài của nàng.

Chờ mụ ta đi khuất chàng đến bên tháp bắt chước làm theo mụ phù thủy. Khi gặp được cô gái tóc dài, Hoàng tử cùng cô gái đàn ca vui vẻ họ trở nên thân thiết nhau hơn. Và chàng hẹn với cô gái hôm sau sẽ quay trở lại nữa.

Tối đến khi mụ phù thủy trở về nhà, cô gái đã thật thà kể lại hết câu chuyện cho mụ phù thủy nghe. Bà ta tức giận cắt mái tóc dài của cô gái cột vào cửa sổ. Rồi bà ta dắt cô gái bỏ vào rừng sâu.

Sáng hôm sau hoàng tử lại đến và leo lên tháp. Chàng gặp mụ phù thủy đứng bên cửa sổ và biết là mình đã bị lừa. Mụ phù thủy cười khoái trá và cắt mái tóc để hoàng tử rơi từ trên cao xuống. Nhưng rất may chàng lại rơi trên đống tóc dài mà mụ đã cắt đi. Còn mụ phù thủy lúc này mới nhận ra rằng mình không còn cách nào để leo xuống và bị nhốt trên tháp cao suốt cuộc đời.

Đến lúc này thì Hoàng tử chạy đi tìm cô gái ở khắp nơi, bất chợt nàng nghe văng vẳng tiếng hát của nàng ở mãi tận rừng sâu. Chàng vui mừng thúc ngựa chạy mau vào rừng và gặp lại cô gái.

Chàng vui mừng dẫn nàng về ra mắt vua cha và xin với vua cha được cưới cô gái tóc dài làm vợ. Từ đó họ sống bên nhau thật hạnh phúc. Và nàng cũng đã tìm lại được cha mẹ nghèo khó của mình nơi xa xôi sau bao năm xa cách.

Truyện Cậu Bé Tích Chu (Có File Mp3) Đọc Truyện Cậu Bé Tích Chu

Nghe truyện cổ tích Cậu bé Tích Chu:

Truyện Cậu bé Tích Chu

Ngày xưa, có một bạn tên là Tích Chu. Bố mẹ Tích Chu mất sớm, cậu ở với bà của mình.

Hàng ngày, người bà phải làm việc quần quật kiếm tiền nuôi Tích Chu , có thức ăn gì ngon bà cũng dành cho Tích Chu. Ban đêm, khi cậu bé ngủ thì bà thức quạt. Thấy bà thương Tích Chu, người dân ở đó bảo:

– Bà ơi! Lòng bà thương Tích Chu cao hơn trời, rộng hơn biển. Lớn lên, Tích Chu sẽ không khi nào quên ơn bà.

Thế nhưng lớn lên, Tích Chu lại chẳng yêu thương bà. Bà thì suốt ngày làm việc vất vả, còn cậu bé suốt ngày rong chơi. Vì làm việc vất vả, ăn uống lại kham khổ nên bà bị ốm. Bà lên cơn sốt nhưng chẳng có ai trông nom. Tích Chu mải rong chơi với bạn bè, chẳng nghĩ gì đến bà đang ốm. Một buổi trưa, trời nóng nực, cơn sốt lên cao, bà khát nước quá liền gọi:

– Tích Chu ơi, cho bà ngụm nước. Bà khát khô cổ rồi!

Bà gọi một lần, hai lần…rồi ba lần nhưng vẫn không thấy Tích Chu đáp lại. Mãi sau, Tích Chu thấy đói mới chạy về nhà kiếm cái ăn. Cậu ngạc nhiên hết sức khi thấy bà biến thành chim và vỗ cánh bay lên trời. Tích Chu hoảng quá kêu lên:

– Bà ơi! Bà đi đâu? Bà ở lại với cháu. Cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi!

– Cúc cu… cu! Cúc… cu cu! Chậm mất rồi cháu ạ, bà khát quá không thể chịu nổi phải hóa thành chim để bay đi kiếm nước. Bà đi đây, bà không về nữa đâu!

Nói rồi chim vỗ cánh bay đi. Tích Chu hoảng quá chạy theo bà, cứ nhằm theo hướng chim bay mà chạy. Cuối cùng Tích Chu gặp chim đang uống nước ở một dòng suối mát. Tích Chu gọi:

– Bà ơi! Bà trở về với cháu đi. Cháu sẽ đi lấy nước cho bà, cháu sẽ giúp đỡ bà, cháu sẽ không làm bà buồn nữa!

– Cúc… cu… cu, muộn quá rồi cháu ơi! Bà không trở lại được nữa đâu!

Nghe chim nói, Tích Chu òa khóc, cậu cảm thấy thương bà và hối hận vì mình đã không biết thương bà. Giữa lúc đó, có một bà tiên hiện ra, bà bảo Tích Chu:

– Nếu cháu muốn bà trở lại thành người thì cháu phải đi lấy nước suối Tiên cho bà cháu uống. Đường lên suối Tiên xa lắm, cháu có đi được không?

Advertisement

Nghe bà Tiên nói, Tích Chu mừng rỡ vô cùng, vội vàng hỏi đường đi đến suối Tiên, rồi chẳng một phút chần chừ, Tích Chu hăng hái đi ngay.

Trải qua nhiều ngày đêm lặn lội trên đường, vượt qua rất nhiều nguy hiểm, cuối cùng Tích Chu cũng đã lấy được nước suối mang về cho bà uống. Được uống nước suối Tiên, bà Tích Chu trở lại thành người và về ở với Tích Chu.

Từ đấy, Tích Chu hết lòng yêu thương và chăm sóc bà.

Tình Huống Truyện Làng (4 Mẫu) Truyện Ngắn Làng Của Kim Lân

Nêu tình huống của truyện ngắn làng của Kim Lân

Tình huống 1: không rõ nét khi rời làng đi tản cư là sự việc có ý nghĩa tạo khung cho câu chuyện. Do bắt buộc phải đi, có thể không coi là tính huống.

Tình huống 2: khi ông Hai nghe tin đồn làng của ông theo Tây làm Việt gian thì tình huống mới thực sự bắt đầu. Ông Hai vốn là người yêu làng tha thiết, ông rất tự hào cái làng thân yêu của mình. Và đặc biệt là đi đâu ông cũng khoe về nó, khoe về sự giàu đẹp, khoe về tinh thần chiến đấu anh hùng. Ấy vậy mà bây giờ lại có tin làng Dầu của ông theo Tây! Cái tin ấy là một cái tin chết người, nó chẳng những làm mất hết niềm tin, sụp đổ niềm tự hào về làng của ông mà còn khiến ông tủi hổ vì đã khoe khoang những điều hay về nó.

Tình huống truyện kết thúc: Khi ông Hai biết được sự thực làng của ông không theo giặc. Qua tình huống này, hình ánh một lão nông dân tha thiết yêu làng quê của mình, một lòng một dạ theo kháng chiến hiện ra sắc nét, với chiều sâu tâm lí, ngôn ngữ mang đậm màu sắc cá thể hoá.

Tình huống truyện ngắn Làng của Kim Lân

Ông Hai là một người nông dân yêu làng, dù phải đi tản cư xa làng nhưng ông vẫn luôn nghe ngóng những tin tức, chiến công chống Tây của làng Chợ Dầu mà lòng tự hào ngập tràn. Tuy nhiên, bỗng nhiên 1 ngày, ông nghe được 1 nguồn tin khá chắc chắn là làng ông theo Tây, phản Cách Mạng. Đây là 1 tình huống truyện rất đặc sắc, bất ngờ, gay cấn. Ông là 1 người tin và yêu làng Cách mạng của mình nhưng lại nghe được tin sét đánh ngang tai là làng ông lập tề theo giặc. Hơn nữa, tin đó lại được từ chính những người đi từ phía làng chợ Dầu nói ra. Tình huống truyện này đã đặt ông vào 1 tình huống giằng xé, đấu tranh dữ dỗi giữa tình cảm cá nhân và trách nhiệm công dân, giữa tình yêu quê hương và lòng yêu đất nước.

Ý nghĩa tình huống truyện Làng

Giúp nhân vật ông Hai bộc lộ được tình yêu làng cũng như tinh thần trung thành với cách mạng của ông. Tâm trạng của ông đã thay đổi hoàn toàn từ khi nhận được tin làng theo Tây cho đến khi được tin làng cải chính. Qua đây, nhà văn Kim Lân muốn khẳng định vẻ đẹp của tinh thần yêu nước, yêu làng của những người nông dân Việt Nam.

Phân tích tình huống truyện Làng

Có những tác phẩm đọc xong là ta quên ngay nhưng có những tác phẩm đọc xong mà để lại ấn tượng sâu sắc tựa như một dòng nước chảy qua để lại lớp phù sa màu mỡ. Tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm như vậy. Đặc biệt, tác phẩm là một minh chứng rõ ràng nhất cho nhận định: “Một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc chính là xây dựng thành công tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật”.

Vậy tình huống truyện là gì? Một tác phẩm tự sự hay, không thể thiếu tình huống truyện. Tình huống là các sự việc, hoàn cảnh diễn ra sự việc được tác giả đặt nhân vật vào đó để bộc lộ đặc điểm, tính cách, phẩm chất của mình. Và dĩ nhiên, việc miêu tả nội tâm nhân vật chính là khắc họa những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật để qua đó người đọc có một cái nhìn rõ hơn về nhân vật cũng như tác phẩm. Tác phẩm Làng của Kim Lân là một tác phẩm hay, thành công trong xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật.

Tác phẩm xoay quanh một sự việc là tin đồn làng Chợ Dầu theo giặc cùng những phản ứng của ông Hai trước, trong và sau sự việc độ. Chính vì thế tình huống trong tác phẩm cũng chia làm ba giai đoạn: trước khi ông Hai nghe tin, khi ông Hai nghe tin làng mình theo giặc và sau khi nghe tin cải chính. Trong mỗi tình huống, nhân vật ông Hai bộc lộ những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của mình thông qua việc xử lí các tình huống. Trước khi nghe tin, ông Hai là một người nông dân với những suy nghĩ khá hồn nhiên và tính cách khá đặc biệt. Ông yêu làng nên đi đâu cũng khoe về cái làng của mình, ông tự hào và yêu tất cả mọi thứ của làng Chợ Dầu nên khi tình huống phải đi tản cư xảy ra, ông Hai vẫn còn rất quyến luyến cái nơi “chôn rau, cắt rốn” của mình, khi rời xa làng ông vẫn luôn theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm tình hình những người ở nơi khác đến. Đặc biệt, với tình huống thứ hai sau khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, nhân vật ông Hai bộc lộ sâu sắc tình cảm của mình. Từng hành động, cử chỉ, lời nói của ông trong mỗi hoàn cảnh, thời gian, địa điểm là một sự tủi hổ, nhục nhã, xót xa, đau đớn, dằn vặt và cuối cùng đi đến quyết định vô cùng khó khăn “Làng thì yêu thật nhưng làng đã theo Tây mất rồi thì phải thù”, Một người đã từng yêu làng hơn bất cứ thứ gì, đã từng tự hào về làng mà bây giờ lại phải thất vọng, đau khổ để quyết định “thù” làng. Tình huống này đã làm cho người đọc cảm nhận sâu sắc con người của nhân vật ông Hai. Nhưng Kim Lân không chỉ dừng lại đó mà còn muốn nói một điều gì “mới mẻ hơn” khi tạo ra tình huống thứ ba là ông Hai nghe được tin cải chính. Một niềm vui bất ngờ, ông Hai như một con người đang chết mòn chết mỏi bây giờ được hồi sinh lại. Ông mua quà cho con và lại theo thói quen sang nhà bác Thứ để khoe tin mừng. Con người ấy vẫn mộc mạc, chân thực, đáng yêu và đáng quý biết bao. Tình huống đã khẳng định một điều trong con người ông Hai, tình yêu làng của ông Hai đã hòa quyện, thống nhất với tình yêu nước, tình yêu kháng chiến, yêu Cụ Hồ. Có thể nói, ở mỗi tình huống, nhân vật ông Hai đều bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, rất “người” của mình. Điều đó cũng khẳng định thành công trong việc xây dựng tình huống truyện của nhà văn Kim Lân.

Phải chăng người đọc không chỉ thấy hấp dẫn với tác phẩm bởi tình huống truyện trong Làng mà còn thực sự thấy ấn tượng, yêu quý và hiểu rõ nhân vật hơn qua việc miêu tả nội tâm nhân vật của nhà văn Kim Lân.

Thật vậy, nhà văn Kim Lân đã đi vào miêu tả rất sâu và kĩ tâm trạng của nhân vật ông Hai qua mỗi tình huống. Trước khi ông Hai nghe tin làng mình theo Tây, ông yêu làng Chợ Dầu của ông hơn bất cứ thứ gì. Ông tự hào về tất cả những gì của làng. Những điều đó khiến cho nhân vật ông Hai hiện lên với những suy nghĩ khá hồn nhiên và tính cách cũng đặc biệt. Ông hay khoe làng: “Ông có thể ngồi nói cả buổi về cái làng Chợ Dầu mà không biết người nghe thế nào, chỉ nói cho sướng cái miệng”. Cho nên khi nhận lệnh phải đi tản cư ông Hai nửa muốn đi vì kháng chiến, nửa lại muốn ở lại vì tình cảm quyến luyến, yêu làng, không muốn rời xa làng, nhưng cuối cùng ông cũng phải đi. Ở nơi tản cư, ông vẫn luôn theo dõi tin tức kháng chiến, tình yêu làng của ông thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi dù ở làng hay rời xa làng. Song, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới thực sự được bộc lộ rõ khi nghe tin làng mình theo Tây. Một sự thất vọng tột độ, cái làng ông vốn rất tự hào, yêu hơn chính bản thân mình thì giờ đây lại theo Tây. Ông thấy mình như người có tội, bỗng chốc những cảm xúc tủi hổ, nhục nhã, dằn vặt, đau đớn ùa về trong ông. Những ngày sau ông không dám ra đường bởi ông sợ, ông lo lắng và cảm thấy chẳng còn mặt mũi để nhìn ai. Một quyết định đau đớn mà ông Hai phải dằn lòng đưa ra: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, ông đã đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng, hi sinh cá nhân vì dân tộc. Nhưng ông vẫn muốn một lần nữa khẳng định sự trung thành với Đảng, với cách mạng của mình qua cuộc trò chuyện với đứa con thơ. Ông Hai đã thực sự có những suy nghĩ đúng đắn. Sau khi nghe tin cải chính, ông Hai lại được yêu làng, tự hào về làng đúng với tình yêu trong trái tim ông. Vì thế ông lại được bản tính hồn nhiên, mộc mạc của mình. Tình yêu làng của ông giờ đã quyện, thống nhất với tình yêu nước, tình yêu kháng chiến. Có thể trong sâu sắc nội tâm nhân vật, nhà văn Kim Lân đã thực sự thành công để người đọc hiểu hơn về nhân vật.

Advertisement

Với thành công trong việc xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật của ngòi bút Kim Lân, nhân vật ông Hai hiện lên với những phẩm chất cao đẹp, với tình yêu làng mộc mạc, giản dị mà sâu nặng hòa quyện với tình yêu đất nước, vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Nói cách khác, quê hương – Tổ quốc đối với mỗi người Việt Nam chúng ta luôn gắn bó trong niềm tự hào nồng thắm!… mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy!

Tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân chỉ là một hạt cát trên sa mạc trong nền văn học bấy giờ. Nhưng tác phẩm vẫn có những nét riêng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Đặc biệt với việc thành công trong xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật, Kim Lân đã đưa nhân vật ông Hai trở thành người nông dân điển hình sống mãi trong lòng người đọc.

Tóm Tắt Làng Kim Lân ❤️️15 Bài Mẫu Truyện Ngắn Gọn Hay

Tóm Tắt Làng Kim Lân ❤️️ 15 Bài Mẫu Truyện Ngắn Gọn Hay ✅ Tuyển Tập Văn Mẫu Súc Tích Và Đầy Đủ Là Tài Liệu Tham Khảo Hữu Ích Khi Học Tác Phẩm.

Tóm tắt bài Làng bằng sơ đồ tư duy

Gợi ý viết tóm tắt Làng hay nhất sẽ giúp các em học sinh trau dồi cho mình những cách diễn  đạt sinh động và linh hoạt hơn.

Truyện ngắn Làng của Kim Lân viết năm 1948, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Truyện kể về ông Hai rất yêu làng, yêu nước. Ông Hai phải đi tản cư nên ông rất nhớ làng và yêu làng, ông thường tự hào và khoe về làng Chợ Dầu giàu đẹp của mình, nhất là tinh thần kháng chiến và chính ông là một công dân tích cực.

Ở nơi tản cư, đang vui với tin chiến thắng của ta, bất chợt ông Hai nghe tin dữ về làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây. Ông cụt hứng, đau khổ, xấu hổ. Ông buồn chán và lo sợ suốt mấy ngày chẳng dám đi đâu, càng bế tắc hơn khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi không cho ở nhờ vì là người của làng Việt gian. Ông chỉ biết trút bầu tâm sự cùng đứa con trai bé nhỏ như nói với chính lòng mình: theo kháng chiến, theo Cụ Hồ chứ không theo giặc, còn làng theo giặc thì phải thù làng.

Nhưng đột ngột, nghe được tin cải chính làng Dầu không theo Tây, lòng ông phơi phới trở lại. Ông khoe với mọi người nhà ông bị Tây đốt sạch, làng Dầu bị đốt sạch, đốt nhẵn. Ông lại khoe và tự hào về làng Dầu kháng chiến như chính ông vừa tham gia trận đánh vậy.

Tiếp tục đón đọc 🌳 Thuyết Minh Về Truyện Ngắn Làng 🌳 10 Bài Văn Mẫu Hay

Bài tóm tắt Làng ngắn gọn sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho những bài kiểm tra liên trên lớp quan đến tác phẩm.

Tác phẩm “Làng” của Kim Lân đề cập tới tình yêu làng quê và lòng yêu nước cùng tinh thần kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra được thể hiện một cách chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai.

Ông Hai là một người con của làng Chợ Dầu vì hoàn cảnh mà buộc phải sống xa làng, dù vậy ông vẫn luôn nhớ về quê hương nơi mình sinh ra lớn lên. Một hôm khi trở về làng ông nghe tin làng theo Tây, tin dữ đến một cách quá bất ngờ khiến ông thất vọng, hụt hẫng và không tin vào sự thật đó. Ông trở về nhà buồn bã, thất vọng, không dám đi đâu nhiều ngày liền.

Sau đó có người trong làng chạy đến báo tin làng không theo Tây mà mọi người vẫn chiến đấu theo cách mạng ông mới vui vẻ trở lại, thì ra đó là tin đồn thất thiệt. Ông Hai khoe với mọi người làng đã bị Tây đốt, ngay cả ngôi nhà của mình cũng vậy, dù mất đi tài sản nhưng ông vẫn cảm thấy vui vì cả làng ông vẫn yêu nước, yêu cách mạng.

Đọc nhiều hơn ☀️ Cảm Nhận Về Nhân Vật Ông Hai Truyện Ngắn Làng ☀️ 15 Mẫu Hay

Tham khảo gợi ý tóm tắt bài Làng ngắn gọn nhất sẽ giúp các em học sinh dễ dàng soạn bài và chuẩn bị cho những tiết học đạt hiệu quả cao.

Ông Hai là người dân làng chợ Dầu, trong những ngày tháng giặc Pháp tràn vào làng, ông cùng gia đình tản cư đến nơi khác. Làng của ông bị người ta đồn là làng Việt gian, bán nước, nhưng trong lòng ông vẫn giữ vững niềm tin về làng của mình.

Khi đã sống ở nơi tản cư, ông Hai dù không biết đọc, nhưng hằng ngày vẫn đến phòng thông tin để nghe thông tin về kháng chiến, và đặc biệt là hỏi thăm thông tin về làng chợ Dầu của ông. Khi nghe người ở nơi tản cư đồn làng ông bán nước, ông Hai đã đau khổ, bức bối vô cùng, còn có cả suy nghĩ bỏ làng, nơi tản cư cũng không cho dân làng chợ Dầu ở nữa.

Nhưng may thay, tới lúc gia đình ông chuẩn bị đi nơi khác thì tin làng ông theo Tây đã được cải chính, ông Hai sung sướng, tự hào vô cùng.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Truyện ngắn Làng kể về làng chợ Dầu một ngôi làng nghèo trong thời gian thực dân Pháp xâm lược. Ông Hai là nhân vật chính trong truyện, sinh ra và lớn lên từ làng nhưng di tản đi nơi khác. Ông hay khoe về làng của mình, kể với mọi người với tất cả mọi thứ với niềm tự hào to lớn.

Tin đồn làng của ông bán nước theo giặc đã khiến ông thất vọng và tủi nhục. Từ xấu hổ với những người xung quanh ông đi đến quyết định làng theo giặc thì cũng là kẻ thù, ông khẳng định tinh thần yêu nước vượt lên những tình cảm cá nhân. Khi tin làng cải chính ông rất vui mừng, khoe với mọi người về ngôi nhà và cả việc làng bị Tây đốt sạch.

Gợi ý cho bạn 🌳 Suy Nghĩ Về Nhân Vật Ông Hai Trong Truyện Ngắn Làng 🌳 Văn Mẫu Tuyển Chọn

Luyện tập viết tóm tắt truyện ngắn Làng khoảng 10 dòng sẽ giúp các em học sinh củng cố lại những kiến thức và cốt truyện cơ bản của tác phẩm.

Ông Hai là người một người nông dân yêu tha thiết yêu làng Chợ Dầu của mình. Do yêu cầu của ủy ban kháng chiến, ông Hai phải cùng gia đình tản cư. Xa làng ông nhớ làng da diết. Trong những ngày xa quê, ông luôn nhớ đến làng Chợ Dầu và muốn trở về. Một hôm, ông nghe tin làng Chợ Dầu của ông làm Việt gian theo Tây. Ông Hai vừa căm uất vừa tủi hổ, chỉ biết tâm sự cùng đứa con thơ. Khi cùng đường, ông Hai nhất định không quay về làng vì theo ông “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù.”

Sau đó, ông được nghe tin cải chính về làng mình rằng làng chợ Dầu vẫn kiên cường đánh Pháp. Ông hồ hởi khoe với mọi người tin này dù nhà ông bị Tây đốt cháy. Cái tin dữ được cải chính. Ông Hai đi từ chiều mãi đến sẩm tối mới về, ông tươi vui, rạng rỡ hẳn lên, mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy. Ông mua bánh rán đường cho các con. Gặp ai ông cũng nói về cái tin làng Dầu Việt gian theo Tây “toàn là sai sự mục đích cả!”

Tối hôm ấy, ông lại sang bên gian nhà bác Thứ, ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng Dầu, chuyện Tây khủng bố, chuyện dân quân, tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao, chuyên nhà ông bị Tây đốt…. rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật.

Giới thiệu tuyển tập 🌹 Tóm Tắt Chiếc Lược Ngà 🌹 15 Bài Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất

Ông Hai là người làng Chợ Dầu. Ông yêu cái làng Chợ Dầu ấy như máu thịt của mình. Ông luôn tự hào khoe rằng làng của ông đẹp, bề thế; làng của ông tinh thần kháng chiến dữ lắm. Thực hiện lệnh tản cư của Ủy ban kháng chiến, ông Hai miễn cưỡng đưa gia đình đi tản cư.

Ở nơi tản cư, lúc nào ông cũng nhớ làng và luôn dõi theo tin tức cách mạng. Khi nghe tin đồn làng Chợ Dầu theo giặc, ông vô cùng đau khổ, cảm thấy xấu hổ, nhục nhã vô cùng. Ông không đi đâu, không gặp ai, chỉ sợ nghe đồn về làng ông theo giặc. Nỗi lòng buồn khổ đó càng tăng lên khi có tin người ta không cho những người làng ông ở nhờ vì là làng Việt gian.

Những chuyển biến trong tư tưởng của ông Hai cũng là những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Khi tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, ông hai mừng lắm. Vẻ mặt ông tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Ông chia quà cho các con, và tất bật báo tin cho mọi người rằng nhà ông bị Tây đốt, làng ông không phải là làng Việt gian. Ông thêm yêu và tự hào về cái làng của mình.

Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến.Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Chia sẻ 🌼 Tóm Tắt Lặng Lẽ Sa Pa 🌼 17 Bài Mẫu Truyện Ngắn Gọn Hay

Câu chuyện kể về ông Hai Thu, người làng Chợ Dầu. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, theo lời kêu gọi của cụ Hồ Chí Minh, toàn dân tham gia kháng chiến, kể cả hình thức tản cư. Do hoàn cảnh neo đơn, ông Hai đã cùng vợ con lên tản cư ở Bắc Ninh dù rất muốn ở lại làng chiến đấu.

Ở nơi tản cư, tối nào ông cũng sang nhà bác Thứ bên cạnh để khoe về làng mình rằng làng ông có nhà cửa san sát, đường thôn ngõ xóm sạch sẽ. Ông khoe cái phòng thông tin, cái chòi phát thanh và phong trào kháng chiến của làng, khi kể về làng ông say mê, háo hức lạ thường.

Ở đây, ngày nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến, ông mùng trước những chiến thắng của quân dân ta. Nhưng rồi một hôm, ở quán nước nọ, ông nghe được câu chuyện của một bà dưới xuôi lên tản cư nói rằng làng Dầu của ông theo giặc. Ông vô cùng đau khổ, xấu hổ, cúi gầm mặt đi thẳng về nhà, suốt ngày chẳng dám đi đâu, chẳng dám nói chuyện với ai, chỉ nơm nớp lo mụ chủ nhà đuổi đi.

Qua nhân vật ông Hai, tác phẩm thể hiện tình yêu làng, yêu nước sâu đậm đi từ tự phát đến tự giác của người nông dân Việt Nam những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Truyện còn cho thấy tấm lòng trân trọng, nâng niu của nhà văn đối với những con người hiền lành, nhỏ bé nhưng ẩn chứa trong mình những tình cảm cao quý, lớn lao.

Mời bạn khám phá thêm 💕 Tóm Tắt Hoàng Lê Nhất Thống Chí 💕 16 Bài Mẫu Văn Bản Hay

Truyện “Làng” xoay quanh câu truyện về ông Hai – một lão nông rất cần cù chất phát, ông rất yêu làng của ông. Vì cuộc kháng chiến chống Pháp, ông Hai phải dời làng tản cư đến sinh sống vùng khác, xa làng ông rất nhớ và yêu làng, luôn theo dõi các tin tức về làng mình. Ông Hai đi đâu cũng khoe về làng Chợ Dầu giàu đẹp luôn sẵn sàng kháng chiến của mình.

Ở nơi tản cư, tin chiến thắng của quân ta đang rầm rồ khiến ai cũng vui vẻ nhưng bổng ông Hai nghe được một tin dữ là dân làng Chợ Dầu trở thành Việt gian theo Tây. Ông vô cùng xấu hổ, cảm thấy cụt hứng, và nhục nhã. Ông suốt ngày quanh quẩn ở nhà, chẳng dám đi đâu, lúc nào cũng buồn chán, mụ chủ nhà khiến ông bế tắc, lo sợ hơn khi mụn muốn đuổi gia đình ông đi không cho ông ở nhờ nhà nữa vì ông là người ở làng Việt gian.

Hằng ngày, ông chỉ biết trút bầu tâm sự của mình với đứa con trai nhỏ, đó thật ra chính là ông tự nói với lòng mình: “phải theo kháng chiến, theo cụ Hồ chứ không theo bọn giặc hại nước, còn làng theo giặc thì phải thù làng”.

Và khi nghe thấy, tin làng bị giặc đốt, làng bị cháy, và tin đồn trước kia là thất thiệt nay được cải chính thì ông lại đi khoe làng. Nỗi đau bấy lâu giờ như biến mất hoàn toàn. Ông chạy đi khắp nơi, vừa đi vừa khoe làng, vừa múa tay thể hiện niềm vui sướng quá lớn đã đến với ông. Ông khoe làng mình, nhà mình bị đốt,… mà không thấy xót xa chỉ thấy tình yêu làng, yêu nước đang mãnh liệt trong ông khiến ai cũng cảm nhận được.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Tóm Tắt Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh 🍀 15 Bài Mẫu Hay

Bài tóm tắt chi tiết tác phẩm Làng sẽ là tư liệu văn mẫu hỗ trợ các em học sinh trong quá trình học và ôn tập văn bản.

Truyện ngắn “Làng” được Kim Lân viết vào năm 1948, ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đây là thời kỳ chính phủ đang kêu gọi nhân dân “hãy tản cư”, những người dân đang nằm ở vùng tam chiến đi lên vùng chiến khu để cùng kháng chiến lâu dài. Truyện đề cao tình cảm cao đẹp về làng quê Việt Nam, lòng yêu nước, và qua nhân vật ông Hai truyện đã thể hiện một cách chân thực, sâu sắc, cảm động về tinh thần kháng chiến của người nông dân phải dời làng đi tản cư.

Ông Hai là một người nông dân rất yêu làng và tự hào về làng Chợ Dầu của mình nhưng vì chiến tranh và hoàn cảnh gia đình nên ông phải rời làng đi tản cư. Sống trong hoàn cảnh bó buộc ở nơi tản cư, ông Hai luôn bứt rứt nhớ về cái làng Chợ Dầu.

Một hôm ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức như mọi khi ông bỗng nghe được từ một người đàn bà tản cư tin làng Dầu “Việt gian theo Tây”. Tin dữ đến bất ngờ khiến da mặt ông “tê rân rân”, cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại”, ông “lặng đi tưởng như đến không thở được” rồi chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi về.

Khi chủ tịch xã lên cải chính làng Dầu không hề theo Tây vẫn chiến đấu theo cụ Hồ theo cách mạng, ông sung sướng đi khoe với tất cả mọi người, khoe cả tin làng ông bị Tây đốt nhẵn. Trong lòng ông bỗng vui vẻ trở lại, vui bởi làng vẫn yêu nước, yêu cách mạng. Đó là niềm vui của con người yêu làng, yêu quê hương chân chính.

Đón đọc tuyển tập 💕 Tóm Tắt Chuyện Người Con Gái Nam Xương 💕 15 Bài Mẫu Hay

Truyện ngắn Làng của Kim Lân kể về thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống giặc Pháp đầy ác liệt, cam go. Truyện kể về ông Hai là một con người buộc phải xa làng vì chiến tranh để đến nơi di tản mới. Trong lòng ông vẫn luôn nhớ da diết ngôi làng của mình.

Ông Hai yêu quê hương mình, yêu làng Dầu của mình vô cùng. Đi bất cứ đâu, ông đều kể về làng của mình, ông khoe làng Dầu, kể cho mọi người nghe những câu chuyện về làng Dầu mà cũng chẳng cần ai nghe, ông kể chỉ để cho sướng miệng, cho vơi nỗi nhớ.

Ông Hai theo lệnh của chính phủ cùng người dân trong làng Chợ Dầu di tản đến nơi khác. Thời gian này giai đoạn kháng chiến của quân ta và thực dân Pháp đang diễn ra ác liệt. Ông Hai là con người yêu làng, yêu quê. Dù xa quê nhưng lúc nào cũng nghe ngóng thông tin và luôn tự hào về ngôi làng của mình.

Ở một nơi xa nhưng ông bất ngờ nhận tin sét đánh, làng Chợ Dầu theo giặc, làm phản cách mạng. Ông xấu hổ, thất vọng và cả sự nhục nhã. Ông quanh quẩn ở nhà mà chẳng dám đi đâu, ngay cả chủ nhà trọ cũng muốn đuổi ông vì sống tại làng Việt gian bán nước. Ông luôn có sự đấu tranh lớn giữa tình yêu làng và cách mạng. Ông quyết định làng theo giặc phải thù làng chứ nhất định không phản cụ Hồ và cách mạng.

Trong một lần nghe ngóng, ông nghe tin cải chính, làng Chợ Dầu không theo Tây, lòng ông vui trở lại, ngôi làng vẫn trung thành với cách mạng. Ông kể về ngôi làng bị Tây đốt sạch, không còn gì cả như một cách chứng minh làng vẫn theo cách mạng.

SCR.VN tặng bạn 💧 Tóm Tắt Phong Cách Hồ Chí Minh 💧 12 Bài Mẫu Ngắn Hay

Sau cách mạng tháng Tám, ông khoe làng trong những ngày khởi nghĩa dồn dập, dân làng tích cực đào hào giao thông, tập quân sự chuẩn bị kháng chiến chống Pháp. Khi buộc phải đi tản cư theo chủ trương của Chính phủ, ông và vợ con vẫn luôn theo dõi tin tức làng Dầu. Khi ở nơi tản cư, ông hay nghĩ về làng, ông thấy “nhớ cái làng quá”. Ông nhớ những ngày cùng làm việc với anh em, cùng đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Ông phấn chấn, háo hức khi nghe được những tin hay về kháng chiến.

Khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây, ông sững sờ, “cổ ông lão nghẹn ắng lại”, “ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Trên đường về nhà, ông thấy xấu hổ, nhục nhã nên “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, ông chưa tin nhưng rồi cay đắng nhận ra “ai người ta hơi đâu bịa tạc” rồi “nước mắt ông lão giàn ra”. Ông thấy khổ tâm, nghĩ đến sự khinh bỉ của mọi người dành cho con ông. Ông căm giận dân làng và lo sợ không biết tương lai sinh sống thế nào. Ông cáu gắt với vợ, trằn trọc không ngủ được.

Suốt mấy ngày sau, ông Hai tủi hổ, không dám ra khỏi nhà. Ông u ám, tuyệt vọng, bế tắc và quyết định “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Ông tìm đến nói chuyện với con trai ông để khẳng định tình yêu làng, lòng chung thủy và niềm tin của ông với cách mạng, cụ Hồ. Khi nghe tin làng Dầu được cải chính, ông Hai vô cùng sung sướng, ông vui mừng đi chia quà cho lũ trẻ và hả hê khoe với mọi người nhà ông bị Tây đốt.

Ngoài ra, tại chúng tôi còn có 🌺 Tóm Tắt Cố Hương Lỗ Tấn 🌺 12 Bài Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất

Trong kháng chiến, Ông Hai – người làng chợ Dầu, buộc phải rời làng. Sống ở nơi tản cư, lòng ông luôn day dứt nhớ về quê hương. Ngày nào ông cũng ra phòng thông tin vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc tin rồi nghe lỏm chẳng xót một câu nào về tin tức của làng. Bao nhiêu là tin hay về những chiến thắng của làng … ruột gan ông lão cứ múa cả lên, trong đầu bao nhiêu ý nghĩ vui thích.

Tại quán nước đó, ông Hai nghe tin làng Dầu làm việt gian theo giặc, ông rất khổ tâm và xấu hổ. Về nhà ông nằm vật ra giường nhìn lũ con, nước mắt cứ trào ra. Lòng ông đau xót và nhục nhã khôn cùng. Ông không dám đi đâu, chỉ ru rú ở nhà. Nghe bất cứ ai nói chuyện gì, ông cũng nơm nớp lo sợ, sợ rằng người ta nói chuyện ấy… Bà chủ nhà đã đuổi khéo vợ chồng con cái nhà ông.

Ông Hai lâm vào hoàn cảnh bế tắc: không thể bỏ về làng vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, cũng không thể đi đâu khác vì không đâu người ta chứa người làng chợ Dầu. Ông cảm thấy nhục nhã xấu hổ, chỉ biết tâm sự với đứa con về nỗi oan ức của mình.

Chỉ khi tin này được cải chính, ông mới vui vẻ và phấn chấn, ông cứ múa cả hai tay lên mà đi khoe với mọi người: Nhà ông bị giặc đốt, làng ông bị giặc phá. Và ông lại tiếp tục sang nhà bác Thứ để khoe về cái làng của mình.

Gợi ý cho bạn 🍀 Tóm Tắt Bài Tuyên Bố Thế Giới Về Sự Sống Còn 🍀 10 Mẫu Ngắn Gọn Và Đầy Đủ

Làng là câu chuyện về nhân vật ông Hai và ngôi làng của mình trong thời gian đầu của cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp. Ông Hai sinh ra và lớn lên lại làng Chợ Dầu vì cách mạng ông phải di tản đến nơi khác. Tuy ở xa nhưng ông vẫn theo dõi tình hình làng và rất đỗi tự hào vì ngôi làng theo cách mạng kháng chiến.

Một hôm ông nghe tin từ người đàn bà tản cư nói về làng chợ Dầu theo Tây, ông tái mặt, không thở nổi và chỉ biết cúi gằm mặt mà đi về. Ông xấu hổ chỉ biết nằm ở nhà, không dám đi đâu. Khi mụ chủ nhà có ý định đuổi ông đi, ông Hai mới thực sự xác định tư tưởng giữa cá nhân và việc nước, nhất định phải thù làng vì làng phản cách mạng.

Sau này khi chủ tịch xã lên thông báo làng không theo Tây. Lòng ông vui phơi phới và đi khoe với mọi người về làng bị Tây đốt phá sạch.

Chia sẻ cùng bạn 🌹 Tóm Tắt Thuế Máu 🌹 10 Bài Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất

Làng chợ Dầu cũng như bao ngôi làng khác trên đất nước, khi thực dân Pháp đánh chiếm những người con nơi này phải di tản đến nơi khác. Ông Hai cũng là người làng Chợ Dầu phải di tản đến nơi khác, ông rất yêu làng và tự hào về điều đó. Ông kể với mọi người về con người nơi đây và tinh thần đánh Tây của họ.

Trong những người chạy giặc, ông nghe tin làng chợ Dầu phản động, làm Việt gian ông rất xấu hổ và tủi nhục. Cảm giác thất vọng và đau đớn. Ông căm thù những kẻ đã vấy bẩn lên truyền thống cách mạng của ngôi làng mình. Khi tin làng chợ Dầu theo giặc đã được cải chính ông rất vui mừng và kể với tất cả mọi người với niềm tự hào nhân lên gấp bội. Mặc dù nhà bị đốt, nhưng ông Hai lại rất vui mừng vì làng ông vẫn là làng kháng chiến.

Tiếp theo đón đọc 🌟 Tóm Tắt Đấu Tranh Cho Một Thế Giới Hòa Bình 🌟 11 Bài Mẫu Hay

Những Bộ Truyện Ngôn Tình Sủng Hay Nhất

Ngôn tình sủng không còn xa lạ với khán giả, nhất là giới trẻ mang trong mình khát khao mãnh liệt về tình yêu. Những nụ hôn đầu đời hay những tổn thương không lành lại được biến hóa một cách tài tình thông qua ngôn phong của nhiều tác giả nổi tiếng. Hôm nay, Wiki Cách Làm sẽ tổng hợp lại top những truyện ngôn tình sủng đáng đọc nhất để các bạn dễ dàng lựa chọn nha!

Danh sách những cuốn truyện ngôn tình sủng hay nhất dành cho các fan ngôn tình

Cưng chiều em cả đời

Bộ truyện nói về nhân vật nữ Mạnh Ảnh kết hôn với người đàn ông thành đạt. Ước mơ của các cô gái trẻ là kết hôn với người biết lo lắng, chiều chuộng mình và cô được thừa hưởng chuyện đó. Diệc Nhiên thương cô rất nhiều, anh luôn dành mọi thứ tốt nhất cho vợ của mình. Trái tim anh một nửa cho công việc, một nửa dành cho cô. Anh yêu cô đến nỗi mọi cuộc gặp gỡ với đàn ông khác luôn bị anh tỏ ra khó chịu, anh ghen với tất cả đàn ông tiếp xúc cùng vợ mình. Một ngày, cô chia sẻ thẳng thắn với anh không nên can thiệp quá nhiều vào đời sống riêng tư của cô, anh thì thì lại cho rằng đã là vợ chồng thì không còn riêng tư nữa.

Yêu em từ cái nhìn đầu tiên

Câu chuyện nói về hai nhân vật có trí tuệ đỉnh cao là Tiêu Nại và Bối Vy Vy. Trong game anh luôn tạo niềm vui cho cô, ngoài hiện thực anh âm thầm bảo vệ dù có chuyện gì xảy ra. Anh là một bức tranh sơn dầu nổi cộm, còn cô phẳng lặng tựa mực viết. Anh nhận cô vào làm thực tập sinh cho công ty anh, với sự thông minh của cô đã khiến anh nhận ra rằng mình đã lựa chọn đúng. Chuyện tình nhẹ nhàng từ đầu cho đến kết thúc mang lại vẻ hài lòng cho người đọc, ở đây người thấy được niềm tin vào tình yêu. Hiện nay truyện đã được chuyển thể thành phim nhận được nhiều lời khen của khán giả.

Bà xã anh chỉ thương em

Bộ truyện nói về cuộc đời cay đắng của nữ chính, vì muốn có tiền chữa trị cho mẹ mình cô đã phải bán thân cho một công tử lạnh lùng. Những cuộc gặp gỡ của cô với anh đều là những trận đòn thỏa ham muốn tình dục, cô cắn răng chịu đựng vì số tiền lớn. Dần dần anh thấy được nét đẹp sâu thẳm bên trong cô nên muốn đối đãi với cô thật tốt, và dĩ nhiên là anh sẽ không nói ra. Cô thì được cưng chiều đến mức quên cả việc bản thân đến với người đàn ông này là vì tiền. Sự cố xảy ra, tấm ảnh cô chụp với đàn ông khác bị anh thấy được, anh trở lại với trạng thái như trước, sử dụng cô như một thú vui. Cô yêu anh rất nhiều, càng thương càng không thể giải quyết vấn đề nên đành bỏ đi.

Sam Sam đến đây ăn nào

Bộ truyện xoay quanh hai nhân vật chính là Sam Sam và tổng tài của cô. Xuất thân trong gia đình không khá giả, cô xa nhà lên thành phố tìm kiếm việc làm. Với khả năng của cô thì được nhận vào công ty lớn đã là khó tin huống hồ lại hẹn hò với người đàn ông có cấp bậc cao nhất trong công ty này. Anh thương mến cô bởi sự ngây thơ, tốt bụng. Anh tạo điều kiện để được thấy cô thường xuyên bằng cách dạy học và cùng cô ăn những bữa cơm trưa trong văn phòng. Cô không nhận ra điều này, chỉ nghĩ rằng sếp đang hành hạ mình thôi. Bộ truyện đã lọt vào top 3 danh sách truyện ngôn tình sủng hay nhất và được chuyển thể thành phim.

Nam thần kiêu ngạo

Bộ truyện nói về anh chàng nam thần Lục Cận Thâm giàu có, tài hoa theo đuổi một cô gái ngốc nghếch Chu Nịnh Nịnh. Cô cứ băn khoăn không biết mình quen anh là đúng hay sai, người khác nghĩ gì về cô, là một người mê tiền hay một người mê sắc. Vì là mối tình đầu tiên của cô nên thật khó mà đưa ra quyết định đúng, trong suy nghĩ của anh thì chỉ có một là muốn đến với cô mãi mãi. Dù cho cô nấu ăn có tệ, hay lên kế hoạch du lịch không giống ai thì anh vẫn muốn thực hiện cùng với cô mà thôi.

Trúc mã cực sủng

Trúc mã cực sủng của tác giả Đề Qua Loạn Khởi lọt vào top 6 thì nếu bạn bỏ qua là một sai sót nghiêm trọng. Bộ truyện xoay quanh hai nhân vật thanh mai trúc mã từ nhỏ đã gắn bó với nhau, ba mẹ cô không có nhiều thời gian chăm sóc nên gửi cô sang nhà bạn thân giữ hộ. Trong mắt người lớn cô đã là con dâu của họ, tính tình của cô với hắn không hợp nhau là mấy nên luôn có sự tranh cãi gay gắt. Cô sẵn sàng chạy xồng xộc vào phòng tắm nam ở ký túc xá để tìm hắn tính xổ, mặc cho mọi người ngăn cản cô bước vào và thấy một cảnh tượng khủng khiếp, hắn không mặc đồ.

Sếp ta chuyên ngành đào bẫy

Câu chuyện kể về chuyện tình một phía của anh dành cho cô từ nhỏ đến bây giờ. Cô là người con gái vui vẻ, cô lên thành phố để học mong có được tương lai tươi sáng. Sau khi học xong, cô trở về nhà với bữa tiệc gặp mặt mà gia đình cô sắp đặt. Anh là người đàn ông thành công, giàu có, lấy được anh thì chỉ có sung sướng và chiều chuộng thôi nhưng cô không quen anh thì làm sao mà lấy anh được.

Cô vợ nhỏ của tổng tài Phúc Hắc

Cô vợ nhỏ của tổng tài Phúc Hắc là tác phẩm ngôn tình hay của tác giả NoharaMia. Truyện nói vềcô gái mồ côi cha mẹ được gia đình giàu có nhận nuôi, trong mắt họ cô là con dâu duy nhất. Yêu nhau được gần 3 năm, bỗng một ngày cô nhận được điện thoại báo tin người đàn ông đó ngoại tình với cô gái khác, họ đang ở khách sạn. Như sét đánh ngang tai, cô tức tốc chạy đến và nhìn thấy sự thật nghiệt ngã, cô quyết định bỏ đi đến nơi khác sinh sống. Khi mà cô sụp đổ không còn tin tưởng vào tình yêu thì cô gặp được anh, mối quan hệ mà cô nghĩ đến chỉ là hàng xóm giúp đỡ nhau lúc khó khăn, cô đâu ngờ rằng anh lặng lẽ bước vào đời sống của cô và vẽ lên những điều tuyệt vời không thể ngờ đến.

Mê muội

Truyện nói về nữ chính Tần Thư xinh đẹp, tiêu chí chọn đàn ông của cô chỉ cần đẹp, trưởng thành, IQ và EQ cao là được rồi. Anh là một người đàn ông sở hữu tất cả điều đó, chỉ có anh mới đàn áp được cô. Anh đề nghị mình sẽ là người đàn ông đầy đủ tiêu chí của cô, luôn yêu thương và che chở cho cô.

Chi bằng tạm ở cùng nhau

Bộ truyện nói về hai nhân vật chính đối lập tính cách nhau, một người cứng nhắc người còn lại hoạt bát, tươi vui. Anh chê cô nông cạn, thiếu hiểu biết. Cô trách anh lạc hậu, lỗi thời. Một hôn ước lập nên kéo hai người họ xích lại gần nhau, những trận chiến không hồi kết của hai người xảy ra thường xuyên, có khi cũng chỉ vì lý do đơn giản cũng đủ làm họ cãi nhau hơn ngày trời.

Bài Liên Quan:

Điều hướng bài viết

5 Truyện Cổ Tích Về Mẹ Hay Nhất

Núi vứt bỏ mẹ già

Ngày xửa ngày xưa, một lãnh chúa ở một xứ nọ ban hành một đạo luật có nội dung “Hãy đưa những người già cả vô dụng lên núi vì họ chẳng có ích gì nữa”. Có một thanh niên trong làng nọ có mẹ già đã lớn tuổi và không thể đi lại được nữa. Chàng thanh niên đã cố gắng chống lại đạo luật đó, nhưng mẹ của chàng đã khuyên chàng hãy chấp nhận để khỏi bị trừng phạt.

Chàng thanh niên vừa cõng mẹ lên núi vừa khóc lóc đau đớn, trong khi bà mẹ bẻ các cành cây dọc đường. Chàng trai hỏi vì sao mẹ làm vậy, thì bà trả lời là “Mẹ đánh dấu đường đi để con về nhà mà không bị lạc”.

Trước tình yêu thương mà bà dành cho người con đang định vứt bỏ bà như vậy đã khiến cho chàng trai quyết định không bỏ rơi bà nữa, anh đem bà về nhà và giấu dưới sàn nhà.

Ngày nọ, lãnh chúa ở xứ bên cạnh thách đố lãnh chúa xứ mà chàng thanh niên sống, và đe dọa sẽ tấn công nếu như không nhận được câu trả lời thỏa đáng. Vì tình trạng nghèo đói của nước này vẫn đang tiếp diễn, nên sẽ không có cách nào chống trả được nếu cuộc tấn công xảy ra. Vì vậy, lãnh chúa đã ban tìm kiếm người trong xứ có thể giải được câu đố. Chàng thanh niên kể về lời thách đố đó với bà mẹ đang sống dưới sàn nhà mình, và bà có ngay câu trả lời đơn giản. Chàng trai ngay lập tức đi báo với lãnh chúa, và đã ngăn được cuộc tấn công từ nước láng giềng.

Lãnh chúa vui mừng và ban thưởng bất kỳ điều gì anh chàng muốn. Chàng trai nói ngay là “Xin ngài hãy bãi bỏ luật vứt bỏ người già đi, vì sự khôn ngoan mà tôi có được này là nhờ vào người mẹ già mà bấy lâu nay tôi vẫn giấu dưới sàn nhà mình đấy!”. Lãnh chúa nghe vậy, liền thay đổi ý định và rút lại luật định đó.

Đây là truyện cổ của Nhật Bản, nói về một tục lệ đã có từ thời xa xưa. Qua đó phê phán đả kích mạnh mẽ tư tưởng bỏ rơi người già vì cho rằng họ đã không còn giá trị. Đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta, mọi thứ chúng ta có được ngày hôm nay đều là do mẹ hi sinh mà tặng cho chúng ta, cần phải biết ơn và đền đáp.

Sự tích bông hoa cúc trắng

Núi vứt bỏ mẹ già

Ngày xưa có một cô bé sống cùng mẹ trong một túp lều tranh dột nát nhưng đó là một bé gái vô cùng hiếu thảo. Thật không may mẹ của cô bé lại bị bệnh rất nặng nhưng vì nhà nghèo nên ko có tiền mua thuốc chữa, và cô bé vô cùng buồn bã.

Một lần đang ngồi khóc bên đường bỗng có một ông lão đi qua thấy lạ bèn đừng lại hỏi khi biết sự tình ông già nói với cô bé:

– Cháu hãy vào rừng và đến bên gốc cây cổ thụ to nhất trong rừng hái lây một bông hoa duy nhất trên đó. Bông hoa ấy có bao nhiêu cánh thì tức là mẹ cháu sống được bằng đấy ngày.

Cô bé liền vào rừng và rất lâu sau mới tìm thấy bông hoa trắng đó. Phải khó khăn lắm cô mới trèo lên được để lấy bông hoa, nhưng khi đếm chỉ có một cánh hai cánh ba cánh bốn cánh. Chỉ có bốn cánh hoa là sao chứ? Chẳng nhẽ mẹ cô chỉ sống được bàng đấy ngày thôi sao? Không đành lòng cô liền dùng tay xé nhẹ dần từng cánh hoa lớn thành những cánh hoa nhỏ và bông hoa cũng theo đó mà nhiều cánh dần lên nhiều đến mức không còn đếm được nữa. Từ đó người đời gọi bông hoa ấy là bông hoa cúc trắng để nói về lòng hiếu thảo của cô bé đó dành cho mẹ mình.

Sự tích bông hoa cúc trắng

Chuyện kể về người mẹ

Sự tích bông hoa cúc trắng

Một bà mẹ đang ngồi bên đứa con thơ. Bà rất buồn vì đang lo đứa con bà chết mất. Đứa bé xanh rớt đã nhắm nghiền đôi mắt và đang thoi thóp. Đôi lúc đứa bé rền rĩ rất thiễu não, thế là người mẹ lại cúi sát xuống gần con, lòng se lại.

Có tiếng gõ cửa, một ông già nghèo khổ trùm kím trong tấm chăn thường khoác cho ngựa bước vào. Trời rét như cắt, kể ra không có áo nào ấm bằng thứ chăn ấy. Bên ngoài toàn là một màu băng tuyết. Gió vun vút như quất vào mặt.

Ông già rét run lập cập. Nhân lúc đứa bé ngủ thiếp đi, bà mẹ nhóm lò hâm một cốc bia. Ông già ngồi xuống ru đứa bé. Bà mẹ ngồi vào chiếc ghế gần ông già, nhìn đứa bé ôm yếu vẫn đang thoi thóp thở, và giơ một bàn tay lên. Bà hỏi:

– Liệu có việc gì không? Thượng đế hẳn không bắt nó đi chứ?

Ông già, chẳng phải ai, chính là Thần Chết, lắc đầu một cách khó hiểu. Bà mẹ gục đầu xuống ngực, nước mắt ròng ròng trên gò má. Đã ba ngày ba đêm nay, không hề được chợp mắt, bà thấy đầu nặng trĩu.

Bà ngủ thiếp đi, chỉ loáng một lát thôi, rồi chợt rùng mình vì rét, bà lại choàng dậy.

– Gì thế này ? – Bà kêu lên, mắt nhìn tứ phía. Ông già và cả con bà nữa đã biến mất. Lão đã đem con bà đi rồi. Chiếc đồng hồ quả lắc vẫn cót két trong xó nhà.

Cộc ! Một quả lắc bằng chì rơi xuống đất. Thế là chiếc đồng hồ ngưng bặt.

Bà mẹ tội nghiệp vùng chạy ra ngoài, miệng gọi con.

Bên ngoài, có một bà cụ mặc áo dài đen, đang ngồi giữa đám tuyết, bảo bà mẹ:

– Tôi thấy Thần Chết đã vào nhà chị. Lão ta mang con chị chạy đi rồi. Lão ta chạy nhanh hơn gió và chẳng bao giờ mang trả lại những con người lão đã cướp đi.

Bà mẹ khẩn cầu:

– Xin cụ chỉ bảo cho tôi con đường lão đi. Cứ chỉ đường cho tôi, tôi sẽ đuổi kịp.

Bà cụ đáp:

– Biết rồi! Nhưng trước khi ta chỉ đường, chị phải hát cho ta nghe tất cả các bài mà chị đã hát ru con chị. Từ trước đến nay, ta đã được nghe nhiều và ta rất thích nghe chị hát. Ta là thần Đêm Tối; ta đã từng trông thấy nước mắt chị tràn ra khi chị hát.

Bà mẹ van vỉ:

– Tôi xin hát hết, hát tất cả, sau đó xin cho tôi đuổi kịp thần Chết, đòi lại đứa con tôi.

Nhưng thần Đêm Tối cứ nín bặt. Thế là bà mẹ đành phải vặn vẹo đôi tay, nước mắt đầm đìa, cất tiếng hát. Tiếng nức nở át cả lời trong các bài hát.

Nghe hát xong thần Đêm Tối bảo:

– Rẽ sang phải rồi đi vào rừng tùng tối om kia. Ta đã thấy thần Chết mang con chị biến vào đấy.

Tới giữa rừng, gặp chỗ ngã ba đường, bà mẹ phân vân không biết rẽ đường nào. Nơi đó có một bụi gai không hoa không lá; đang giữa mùa đông nên băng bám và rủ xuống khắp các cành.

– Có thấy thần Chết mang con tôi qua đây không?

Bụi gai trả lời:

– Có. Nhưng nếu muốn tôi chỉ đường thì bà phải ủ tôi vào lòng để sưởi ấm cho tôi. Tôi buốt cóng và sắp biến thành băng rồi đây.

Bà mẹ ôm ghì bụi gai vào ngực để sưởi ấm cho nó. Gai đâm vào da thịt bà, máu nhỏ từng giọt đậm, nhưng bụi gai thì đâm chồi nẩy lộc, xanh tươi và trổ hoa ngay giữa đêm đông giá rét vì được bà mẹ truyền cho sức nóng của bà. Sau đó, bụi gai chỉ đường cho bà mẹ.

Bà đến một cái hồ lớn, không có lấy một bóng thuyền bè. Mặt băng trên hồ quá mỏng, không thể giẫm lên được, mà nước hồ lại quá sâu không thể lội qua. Nhưng thế nào thì thế, bà cũng phải vượt qua hồ tìm con. Bà bèn sụp xuống để uống cạn nước hồ. Tuy biết rằng đó là một việc mà con người ta không thể làm được, nhưng bà mẹ đau khổ mong mỏi Thượng đế sẽ ban phép lạ.

Hồ bảo bà:

– Không, không làm thế được đâu ! Ta thương lượng với nhau thì hơn. Tôi rất thích ngọc trai, mà đôi mắt bà là những hạt ngọc trai trong suốt, tôi chưa từng thấy bao giờ. Hãy khóc cho đến khi đôi mắt của bà rơi xuống; lúc ấy tôi sẽ đưa bà tới tận cái nhà kính ươm cây, nơi thần Chết ở và vun trồng các cây hoa. Mỗi cây là một kiếp người.

Bà mẹ nức nở:

– Trời ! Tôi còn tiếc gì để tìm thấy con tôi !

Bà khóc, nước mắt tuôn tầm tã đến nỗi đôi mắt bà theo dòng lệ rơi xuống đáy hồ và hóa thành hai hòn ngọc. Thế là bà được hồ nâng bổng lên như ngồi trên đu, và thoắt một cái, bà đã sang đến một ngôi nhà kỳ diệu dài chừng một dặm.

Không hiểu đấy là một quả núi có rừng thẳm và hang sâu hay là một công trình thiết kế nào của con người. Mắt bà mẹ đã rơi theo dòng lệ nên bà chẳng nom thấy gì. Bà hỏi:

– Tìm đâu cho thấy thần Chết đã cướp con tôi đi?

Một bà già canh giữ vườn kính ươm cây của thần Chết bảo bà:

– Thần Chết chưa về. Bà làm thế nào mà đến được tận chốn này? Ai đã giúp bà?

– Thượng đế chứ ai! – Bà mẹ đáp – Người đã thương xót tôi, vậy bà cũng rủ lòng thương bảo cho tôi biết con tôi đi đâu.

Bà già nói:

– Tôi không biết mặt nó, còn bà thì không trông thấy gì. Biết bao nhiêu cây, bao nhiêu hoa đã héo tàn trong đêm qua. Thần Chết lát nữa sẽ đến trồng lại. Chắc bà biết rằng mỗi người có một gốc cây hay một bông hoa tượng trưng cho sinh mệnh của mình. Ở đây, những cây hoa ấy chẳng có gì khác thường nhưng chúng có một trái tim và trái tim ấy đập hẳn hoi. Tim trẻ con cũng đập. Đấy, bà cứ tìm đi ! Có lẽ bà sẽ nhận ra nhịp tim của con bà đấy. Nhưng nếu bà muốn tôi hướng dẫn thêm cho bà thì bà tạ ơn tôi bằng cái gì nào?

Bà mẹ tội nghiệp than thở:

– Tôi chẳng còn cái gì để cho nữa, nhưng nếu cần, tôi có thể theo người đến tận cùng thế giới.

– Tôi đến đấy làm gì kia chứ? Bà còn có thể cho tôi mớ tóc dài đen nháy của bà. Bà thừa biết bộ tóc ấy đẹp lắm. Tôi rất thích bộ tóc ấy và sẽ cho bà bộ tóc bạc của tôi. Thế là đổi hòa đấy.

Bà mẹ nói:

– Nếu bà chỉ đòi hỏi có thế thôi thì tôi rất vui lòng.

Rồi bà trao mớ tóc đen cho bà cụ và nhận lấy mớ tóc bạc.

Hai người bước vào vườn kính rộng lớn của Thần Chết. Nơi đó có rất nhiều cây cỏ mọc lung tung. Có những cây dạ lan hương mảnh dẻ mọc trong lồng hình chuông bằng thủy tinh. Có những bông thược dược to và mập mạp. Có những cây mọc dưới nước, cây thì xanh tươi, cây thì khô cằn, hàng bầy rắn nước quấn mình quanh gốc. Đây là những cây cọ, cây tiêu huyền mộc; kia là đám mùi và xạ hương. Mỗi cây, mỗi hoa đều mang một tên người, mỗi cây, mỗi hoa tượng trưng cho một kiếp người hiện đang sống bên Việt Nam, ở Gơrôenlăng hoặc khắp nơi trên Trái Đất.

Lại có những cây lớn trồng trong chậu nhỏ đang đe dọa phá vỡ chậu. Ngược lại, có những cây con cằn cỗi lại được trồng trong khoảng đấy xới xắn mịn màng, phủ rêu xanh mượt. Người mẹ đau khổ cúi rạp xuống từng gốc cây, tìm đến tận từng gốc nhỏ nhất, lắng nghe nhịp đập từng trái tim của chúng. Và giữa muôn ngàn trái tim ấy bà đã nhận ra tiếng đập của trái tim đứa con mình.

– Con tôi đây rồi ! Bà reo lên, tay chìa trên một gốc kỵ phù nhỏ bé màu lam, dáng ốm yếu, thân nghẹo sang một bên.

Bà già ngăn lại:

– Chớ đụng vào hoa. Cứ đứng ở đây. Chắc chắn lát nữa Thần Chết sẽ về. Đừng cho Thần nhổ cây hoa này. Cứ dọa là bà sẽ nhổ hết cây cỏ ở quanh đây, Thần Chết sẽ sợ, vì Thần chịu trách nhiệm trước Thượng Đế về các cây cỏ ở đây; không có lệnh của Người thì không ai được nhổ một cây nào cả.

Ngay lúc đó, nổi lên một cơn gió lạnh buốt. Bà mẹ cảm thấy rằng thần Chết đã đến.

Thần hỏi:

– Sao ngươi lại có thể tìm được đuờng đến tận đây, mà lại đến trước cả ta ?

– Ta là mẹ!

Thần Chết vươn bàn tay dài ngoằng về phía cây hoa mảnh dẻ, nhưng bà mẹ vòng đôi bàn tay giữ lấy cây, hết sức che chở cho cây không bị nhàu nát một lá nào. Thần Chết hà hơi vào tay bà mẹ; bà cảm thấy lạnh buốt hơn gió bấc làm rụng rời cả đôi tay.

– Ngươi không chống lại được ta đâu – Thần Chết dọa.

Bà mẹ trả lời:

– Nhưng còn có Thượng Đế.

Thần Chết nói:

– Ta cũng chỉ tuân theo lệnh của Thượng Đế mà thôi. Ta trông nom khu vườn của Người. Ta mang cây cỏ hoa lá ở đây đi cũng chỉ để đem trồng lại vào khu vườn trên Thiên Đàng, còn mọi việc xảy ra trên ấy, hoa cỏ mọc thế nào, ta không được nói với ngươi.

Bà mẹ nức nở van xin:

– Giả con cho tôi.

Đồng thời mỗi tay bà túm lấy một bông hoa gần đấy rồi thét lên:

– Nếu tuyệt vọng tôi sẽ nhổ hết hoa ở đây.

Thần Chết bảo:

– Chớ có đụng vào. Ngươi nói rằng ngươi đau khổ mà ngươi lại muốn làm cho một người mẹ khác đau khổ hay sao?

Người mẹ khác? Bà mẹ đau thương buông hai bông hoa ra.

Thần Chết nói thêm:

– Đây là đôi mắt của ngươi. Thấy chúng lóng lánh sáng ngời dưới đáy hồ ta đã vớt lên. Ta biết đó là đôi mắt của ngươi. Hãy lấy lại đi. Đôi mắt ấy trong sáng hơn trước rất nhiều. Hãy nhìn vào lòng giếng gần đây, ta sẽ cho ngươi biết tên hai bông hoa ngươi vừa định ngắt. Ngươi sẽ thấy rõ cả cuộc đời quá khứ và tương lai của chúng, thấy rất rõ tất cả những gì mà ngươi sắp hủy hoại.

Bà mẹ nhìn xuống lòng giếng. Bà thấy từ một trong hai bông hoa ánh lên một niềm vui đầy hạnh phúc, còn cuộc đời của bông hoa kia chỉ toàn những cảnh trầm luân, khổ ải, nghèo khó, khốn cùng.

– Kiếp hoa này cũng như kiếp hoa kia, đều do ý của Thượng Đế cả.

Người mẹ nói:

– Thế hoa nào là hoa bất hạnh, hoa nào là hoa diễm phúc?

Thần Chết đáp:

– Ta không thể tiết lộ được thiên cơ. Nhưng ngươi cần biết rằng một trong hai bông hoa đó chính là bông hoa của con ngươi, là hình ảnh tương lai của nó.

Bà mẹ thét lên:

– Hoa nào trong hai bông là hoa của con tôi? Hãy bảo cho tôi biết. Nếu đời nó sau này sẽ đau khổ thì xin hãy mang nó đi, mang ngay nó về chốn Thiên Đàng! Xin hãy quên những dòng nước mắt của tôi, quên những lời tôi đã cầu nguyện, quên cả những lời tôi đã nói và những việc tôi đã làm!

Rồi bà vặn vẹo đôi bàn tay, quỳ xuống và cầu khẩn:

– Cúi xin Thượng Đế đừng nghe lời tôi nếu tôi có cầu khẩn những lời trái với ý Người. Xin người đừng nghe tôi.

Rồi bà gục đầu xuống ngực.

Thế là Thần Chết mang đứa bé tới cái xứ sở xa lạ mà bà mẹ đã nói đến ban nãy.

Câu chuyện muốn ca ngợi sự hi sinh cao cả của người mẹ dành cho những đứa con của mình, tất cả những gì mẹ có đều là dành cho những đứa con. Kể cả khi đó là thanh xuân, ánh sáng hay tính mạng. Một người mẹ sẽ sẵn sàng tuyên chiến với cả thần chết để bảo về bằng được con của mình. Họ có một sức mạnh mà ngay cả những vị thần cũng không thể nào tưởng tượng nổi.

Sự tích người mẹ

Chuyện kể về người mẹ

Ngày xưa, khi tạo ra người Mẹ đầu tiên trên thế gian, ông Trời đã làm việc miệt mài suốt sáu ngày liền, quên ăn quên ngủ mà vẫn chưa xong việc. Thấy vậy một vị thần bèn hỏi: “Tại sao ngài lại mất quá nhiều thời giờ cho tạo vật này?”

Ông Trời đáp: “Ngươi thấy đấy. Đây là một tạo vật cực kì phức tạp gồm hơn hai trăm bộ phận có thể thay thế nhau và cực kì bền bỉ, nhưng lại không phải là gỗ đá vô tri vô giác. Tạo vật này có thể sống bằng nước lã và thức ăn thừa của con, nhưng lại đủ sức ôm ấp trong vòng tay nhiều đứa con cùng một lúc. Nụ hôn của nó có thể chữa lành mọi vết thương, từ vết trầy trên đầu gối cho tới một trái tim tan nát. Ngoài ra ta định ban cho vật này có sáu đôi tay”

Sự tích cây vú sữa

Sự tích người mẹ

Ngày xưa, có một cậu bé được mẹ cưng chiều nên rất nghịch và ham chơi. Một lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi. Cậu la cà khắp nơi, mẹ cậu ở nhà không biết cậu ở đâu nên buồn lắm. Ngày ngày, mẹ ngồi trên bậc cửa ngóng cậu về. Một thời gian trôi qua mà cậu vẫn không về. Vì quá đau buồn và kiệt sức, mẹ cậu gục xuống… Không biết cậu đã đi bao lâu. Một hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ:

“Phải rồi, khi mình đói, mẹ vẫn cho mình ăn, khi mình bị đứa khác bắt nạt, mẹ vẫn bênh mình, về với mẹ thôi”.

Cậu liền tìm đường về nhà… Ở nhà, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu khản tiếng gọi mẹ:

“Mẹ ơi, mẹ đi – đâu rồi, con đói quá !”

Cậu bé gục xuống, rồi ôm một cây xanh trong vườn mà khóc. Kỳ lạ thay, cây xanh bỗng run rẩy. Từ các cành lá, những đài hoa bé tí trổ ra, nở trắng như mây. Hoa tàn, quả xuất hiện, lớn nhanh, da căng mịn, xanh óng ánh. Cây nghiêng cành, một quả to rơi vào tay cậu bé. Cậu bé cắn một miếng thật to. Chát quá Quả thứ hai rơi xuống. Cậu lột vỏ, cắn vào hạt quả. Cứng quá. Quả thứ ba rơi xuống. Cậu khẽ bóp quanh quanh quả, lớp vỏ mềm dần rồi khẽ nứt ra một kẽ nhỏ. Một dòng sữa trắng sóng sánh trào ra, ngọt thơm như sữa mẹ… Cậu bé ghé môi hứng lấy dòng sữa ngọt ngào, thơm ngon như sữa mẹ. Cây rung rinh cành lá, thì thào:

“Ăn trái ba lần mới biết trái ngon

Con có lớn khôn mới hay lòng mẹ”

Cậu oà lên khóc. Nhận ra mẹ đã không còn nữa. Cậu nhìn lên tán lá, lá một mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu ôm lấy thân cây mà khóc, thân cây xù xì, thô ráp như đôi bàn tay làm lụng của mẹ. Nước mắt cậu rơi xuống gốc cây. Cây xòa cành ôm cậu, rung rinh cành lá như tay mẹ âu yếm vỗ về. Cậu kể cho mọi người nghe chuyện về người mẹ và nỗi ân hận của mình… Trái cây thơm ngon ở vườn nhà cậu, ai cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và đặt tên là Cây Vú Sữa.

Ý nghĩa nhân văn: Con cái phải hiếu thảo với cha mẹ. Tình mẹ là bao la, vĩnh cửu nhất.

Sự tích cây vú sữa

Sự tích cây vú sữa

Đăng bởi: Vĩ Quốc Nhan

Từ khoá: 5 truyện cổ tích về Mẹ hay nhất

Cập nhật thông tin chi tiết về Tuyển Tập Truyện Ngắn Cho Trẻ Em (28 Truyện) Truyện Hay Cho Bé trên website Bpco.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!